Page 205 - Văn hoá Huế
P. 205

- Dạ tọa (Đêm ngồi): “Bạch đầu sở kế duy y thực. Hà đắc cuồng ca tự thiếu niên -
            Bạc đầu luẩn quẩn ăn cùng mặc. Sao được nghêu ngao tự thiếu niên”.
               - Thu nhật ký hứng (Ngày thu cảm hứng): “Tự thân bạch đầu khiếm thu thập.
            Mãn đình hoàng diệp lạc phân phân - Đầu bạc trách ta thu xếp vụng. Đầy sân lá úa
            rụng tơi bời”.
               Không có biến cố gì khiến ông phải nổi giận, bất mãn, bất đắc chí. Nhưng bàng bạc
            trong cả tập thơ là một nỗi buồn thăm thẳm. Chiều bên sông “thanh phong niễu niễu”
            (hiu hiu gió mát), đêm ngắm trăng sáng “lô hoa sơ bạch, cúc sơ hoàng” (lau chớm
            trắng, cúc chớm vàng) lòng nhà thơ lúc nào cũng đượm buồn. Buồn vì “Khả liên đồng
            thị vị quy nhân” (Buồn chung đất khách vẫn long đong). Buồn vì “độc bão hương
            tâm”(ôm lòng nhớ quê). Buồn vì “Nhất thân ngọa bệnh đế thành đông” (Một mình
            bệnh rụi góc đông đế thành) mà “Cố hương cang hạn cửu phương nông. Thập khẩu hài
            nhi thái sắc đồng” (Quê nhà hạn hán hại hoa màu. Mười đứa con thơ mặt tựa rau). Cho
            nên một đêm cuối xuân “bế môn tạ tri giao” (đóng cửa không tiếp bạn tâm giao), nhà
            thơ viết như thể gọi hồn:
                                        Đỗ vũ nhất thanh xuân khứ hĩ
                                        Hồn hề! Quy lai! Bi cố hương!
                                         (Ngẫu hứng công quán bích)
                                       Chim cuốc kêu sầu, xuân đã hết
                                      Hồn ơi! Về đi! Thương cố hương!
                                     (Ngẫu hứng đề vào vách công quán)
               Những tên đất, tên người xứ Huế được ghi lại trong tác phẩm của Nguyễn Du không
            nhiều. Cả tập thơ Nam Trung tập ngâm chỉ có 4 bài nhắc tới Hương Cần, chùa Thiên
            Thai, sông Hương và núi Ngự với không gian và tâm thế dậm màu suy tưởng, sâu nặng
            nỗi lòng.
               Hơn hai trăm năm nay, nhiều người, nhiều thế hệ vẫn không thể nào quên câu thơ của
            đại thi hào trong bài Thu chí mỗi khi nhắc nghĩ tới sông Hương: “Hương giang nhất phiến
            nguyệt. Kim cổ hứa đa sầu - Một mảnh trăng trên sông Hương. Gợi bao mối sầu kim cổ”.
            Biết bao nỗi niềm chất chứa trước tuyệt tác sông Hương được thiên nhiên ban tặng hiện lên
            như một bức tranh trong con mắt của nhà thơ. Cảnh và tình hòa quyện, như có lần nhà thơ
            đã gửi gắm trong Truyện Kiều: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.
               Mùa xuân, trước công quán, cung vua nhìn ngắm núi Ngự Binh xa xa bên kia sông
            Nguyễn Du lại chạnh lòng nghĩ tới dòng đời: “Xuân tòng giang thượng lai hà xứ - Cảnh
            xuân theo dòng nước trôi về đâu ?” và không quên tự soi thân phận mình: “Nhân ý thiên
            nhai trệ nhất quan - Vì chút chức quan mà ta phải lần lữa nơi chân mây”.
               Hương Cần xanh biếc liễu xanh cứ mãi day dứt tình cảnh kẻ Bắc người Nam, kẻ ở
            người đi trong bài Tống nhân (Tiễn bạn): “Giang bắc, giang nam vô hạn tình - Kẻ phía
            bắc sông, kẻ phía nam sông, tình chan chứa”
               Có lẽ, Nguyễn Du không đến với thiên nhiên tươi đẹp của xứ kinh kỳ bằng tâm
            thế của người đi tìm lạc thú tiêu dao. Không ít nhà thơ cùng thời đã làm như thế. Ông
            không lấy cảnh để thỏa mãn thú ngao du mà mượn cảnh để ký thác nỗi niềm nhân sinh.
            Vì thế, thơ ông để lại đấu ấn sâu đậm trong lòng người hậu thế.
               Đã ngót hai trăm hai mươi năm đại thi hào Nguyễn Du vào làm quan, sống và làm
            thơ ở xứ Huế. Và hơn hai trăm năm nay, kiệt tác Truyện Kiều vẫn còn để lại một câu

                                                               SỞ VĂN HÓA VÀ THỂ THAO THÀNH PHỐ HUẾ   203
   200   201   202   203   204   205   206   207   208   209   210