Page 37 - Người Hà Nội
P. 37
Mỗi dịp Tết đến, xuân về, khắp chốn Thăng Long - Hà Nội lại rộn ràng những
khúc chèo của cha ông. Những làn điệu chèo cổ như du xuân, dương xuân, lới
lơ, cách cú, đò đưa, hát đúm, nón thúng quai thao… nối tiếp ngân vang trong
lời mới mừng đất nước chuyển mình bước vào vận hội mới. Những trích đoạn
chèo cổ, vở diễn được các nhà hát rộn ràng sáng đèn mời gọi bao bước chân
dập dìu tìm về và đắm mình trong di sản nghệ thuật ngàn năm.
Rộn rã chèo xuân
HỒNG ĐẶNG
hư bao miền quê của vùng đồng thường do ông Trùm trông coi mọi việc, có bác che làm buồng trò. Sát hiện đình treo hai đĩa đèn
bằng châu thổ sông Hồng, nghệ Thơ chuyên giữ việc bỏ vai, đặt câu (khi cần), dầu to ngọn, có nơi là đèn bão soi sáng. Dàn nhạc
thuật chèo đã từng “vang bóng” giúp nghệ nhân đóng các loại vai Sinh, Đào, chính cốt là bộ gõ chia nhau ngồi hai bên mép
Ntrong đời sống của người dân đất Lão, Mụ, Hề… cho tốt cùng bốn nhạc công làm chiếu. Bà con dân xã ngồi kín ba mặt chiếu diễn,
Thăng Long xưa. Trong cuốn “Bách khoa thư dàn nhạc. Mỗi năm xuân thu nhị kỳ, ông nhìn rõ mặt các nghệ nhân. Trước sân khấu kê
Hà Nội” (phần Nghệ thuật, NXB Thời đại, Trùm triệu tập mọi người gồng gánh kéo nhau nghiêng sẵn một cái trống, với ghế tựa dành cho
2020) các nhà nghiên cứu đã nhận định, từ đến các đám giấm sẵn từ Một, Chạp. Tích trò vị cầm trịch. Người cầm trịch phải biết nhiều
nửa sau thế kỷ XV, chèo cung đình trở về với do ông Trùm hoặc bác Thơ giữ, còn mọi người tích, thuộc nhiều điệu, thông thạo cung cách
các hội làng cùng sự bao bọc của người nông đã thuộc làu, đến đám, tùy tình hình hoặc yêu thưởng thức nghệ thuật cổ mới có thể tránh khỏi
dân và phát triển mạnh mẽ bằng nghệ thuật cầu của địa phương, bác Thơ đặt thêm câu cho nhầm lẫn khi đánh trống khen chê nghệ nhân.
trò nhại kết hợp với ứng diễn. Với sự chồng vai nào đó, thì chỉ vai ấy phải học. Cái khó làm Gặp đoạn trò xem sướng mắt, nghe ngọt tai thì
lớp đan xen của nhiều loại hình ca múa dân nên sự linh hoạt và hấp dẫn của các tích diễn đánh tiếng “thùng” thướng; đoạn nào diễn sai thì
gian, chèo đã nhanh chóng trở thành một là mỗi vai được bác Thơ rỉ tai, ông Trùm nhắc đánh một hồi “cắc” bắt ngừng diễn để làng “bắt
hình thức sinh hoạt tinh thần phổ biến được nhớ, ra diễn sao cho trúng vào thích thú bẻ”. Mỗi tiếng “thùng” thướng của vị cầm trích
yêu thích trong xã hội, đặc biệt là chèo sân thưởng ngoạn của địa phương. Nơi thích nghe đã có ngay một chú bé gắn một thẻ tre nhuộm
đình. Các phường chèo bắt đầu hình thành, hát thì thêm bài, thêm điệu. Nơi thích xem đỏ vào ống trẻ hay chậu thau đặt cạnh chiếu
hằng năm vào hai kỳ xuân thu, họ nhóm họp diễu thì vai hề phải gia cường những câu diễn. Giá mỗi thẻ do làng quy định với Trùm
lại, đi xin đám ở các hội làng. “ngoài tích” có ý nghĩa sát đúng với tình hình hường từ trước, sau đêm diễn, cứ đếm số thẻ xin
Nhà nghiên cứu dân gian Trần Việt Ngữ ở địa bàn… tiền dân làng”.
sinh thời đã nghiên cứu rất sâu về nghệ thuật Về chiếu chèo sân đình, tác giả Trần Việt Thời Lê mạt, nghệ thuật chèo đã phát
chèo. Trong bài viết về chiếu chèo xuân, ông Ngữ miêu tả chi tiết: “Thường thềm đinh cửa triển mạnh ở bốn trấn xung quanh kinh đô,
cho hay: Phường chèo, hội chèo ngày trước giữa được phường chọn làm sân khấu, trải sẵn đó là: chiếng chèo Đông, chiếng chèo Đoài,
chỉ gồm mươi lăm người, rất hiếm nữ giới, đôi chiếu đậu, với bức màn đỏ nâu bạc treo ngăn chiếng chèo Nam (Sơn Nam), chiếng chèo
Xuân Ất Tỵ 2025
40