Page 114 - Tạp chí Giao Thông Vận Tải - Số Tết Âm Lịch
P. 114

SỐ 1+2  KHOA HỌC CÔNG NGHỆ


        của chính quyền địa phương trong việc lập kế hoạch và tài   tàu thử nghiệm sẽ được chạy vào lúc bắt đầu hoạt động
        trợ cho các dự án. Sự hợp tác giữa các nhà sản xuất đường   mỗi ngày để kiểm tra cơ sở hạ tầng.
        sắt, trường đại học, tổ chức nghiên cứu, phòng thí nghiệm   Từ đó, dịch vụ ĐSCT đã mang lại lợi ích lớn cho hành
        và trung tâm kỹ thuật cho phép phát triển năng lực, tiến   khách, bao gồm giảm thời gian đi lại, tăng tần suất và chất
        bộ công nghệ nhanh chóng và nội địa hóa công nghệ.   lượng dịch vụ cũng như đảm bảo an toàn. Nhìn chung, kết
        Kết quả cho thấy, mạng lưới ĐSCT được xây dựng với chi   quả kinh tế có vẻ tích cực, ngay cả ở giai đoạn đầu. Tỷ suất
        phí trung bình khoảng 17 đến 21 triệu USD/km, chỉ bằng   lợi nhuận kinh tế của mạng lưới vào năm 2015 ước tính là
        khoảng 2/3 chi phí xây dựng ở các quốc gia khác [1, 3],   8%, cao hơn nhiều so với chi phí cơ hội được áp dụng ở
        trong khi nhiều tuyến có tỷ lệ chạy trên cầu cạn hoặc trong   Trung Quốc và hầu hết các quốc gia khác cho các khoản
        hầm rất cao do điều kiện địa hình khó khăn.          đầu tư cơ sở hạ tầng dài hạn lớn như vậy. Do đó, có lý do để
            Để đạt được chi phí xây dựng rất thấp này, mặc dù   lạc quan về khả năng tồn tại kinh tế lâu dài của các tuyến
        chi phí nhân công lao động ở Trung Quốc thấp hơn nhưng   đường sắt ĐSCT trên các trục chính của Trung Quốc.
        yếu tố then chốt tạo nên chi phí thấp hơn, xây dựng nhanh   2.2. Kinh nghiệm phát triển mạng lưới ĐSCT của
        chóng và hiệu quả là việc tiêu chuẩn hóa thiết kế và quy   Indonesia
        trình. Số lượng dự án được phê duyệt đầu tư nhiều và liên
        tục tạo điều kiện khuyến khích các ngành cung ứng có
        năng lực tốt, phát triển nhanh chóng và thị trường cạnh
        tranh cao. Chương trình đầu tư ĐSCT quy mô lớn, không
        thay đổi sau khi được phê duyệt, cũng đã khuyến khích
        phát triển năng lực đổi mới và cạnh tranh trong sản xuất
        và xây dựng thiết bị cũng như khả năng khấu hao chi phí   Hình 2.2: Quy hoạch mạng lưới đường sắt cao tốc tại đảo Java,
        vốn của thiết bị xây dựng cho nhiều dự án. Các đơn vị quản                Indonesia
        lý dự án ĐSCT được quy định trách nhiệm rõ ràng và được   Dự án ĐSCT Jakarta - Bandung là tuyến ĐSCT đầu tiên
        uỷ quyền. Việc đánh giá của các nhà quản lý dự án không   được chủ động xây dựng và phát triển của một quốc gia
        chỉ dựa trên lợi nhuận mà dự án mang lại mà còn dựa trên   ASEAN, được phê duyệt dựa trên Kế hoạch phát triển trung
        sự xem xét kỹ lưỡng về chất lượng dự án, an toàn, quản lý   hạn 2015 - 2019 với mục tiêu xây mới hoặc cải tạo 2.159
        xây dựng, thực hiện hợp đồng và tác động môi trường, ảnh   km đường sắt liên tỉnh và 1.099 km đường sắt đô thị [4].
        hưởng đến lợi ích lâu dài của công ty dự án. Phần doanh   Dự án có chiều dài 143 km nối Thủ đô Jakarta với Bandung,
        thu của đơn vị quản lý dự án thường bao gồm lương cơ   thủ phủ tỉnh Tây Java và là một phần của mạng lưới đường
        bản và tiền thưởng dựa trên hiệu suất, bổ sung các ưu đãi   sắt dài 766 km kết nối Jakarta và Surabaya. Tuyến ĐSCT
        và phần thưởng phi tài chính, từ đó khuyến khích sự nỗ lực   Jakarta - Bandung đã giảm thời gian di chuyển giữa hai
        và đảm bảo quản lý chất lượng công trình.            thành phố còn 45 phút. Sự cạnh tranh gay gắt giữa Nhật
            Sự thành công tiếp theo của ĐSCT Trung Quốc là mức   Bản và Trung Quốc để giành được gói thầu dự án đã kết
        giá vé cạnh tranh giữa ĐSCT khi so sánh với xe khách đường   thúc với thông báo vào tháng 9/2015 rằng hợp đồng trị giá
        dài và máy bay khiến ĐSCT có thể thu hút hành khách từ   5,9 tỷ USD đã được trao cho KeretaCepat Indonesia China
        mọi nhóm thu nhập. Giá vé ghế ngồi khoang hạng 2 của   (KCIC), là tập đoàn liên doanh gồm các doanh nghiệp nhà
        ĐSCT 200 - 150 km/h chỉ ngang với xe khách cùng cự ly   nước của Indonesia và Trung Quốc. Dự án có chi phí 5,9 tỷ
        chuyến đi, tàu ĐSCT 300 - 350 km/h cao hơn 1,5 lần. Với   USD tại thời điểm trao thầu và trên thực tế khi hoàn thành
        vé khoang hạng nhất tàu 200 - 250 km/h cũng chỉ cao hơn   lên tới 7,3 tỷ USD (tăng 25% so với giá trao thầu, gần 40%
        20%, vé hạng nhất tàu 300 - 350 km/h cũng không vượt   so với nghiên cứu khả thi). Điều kiện vay của Trung Quốc
        quá giá vé máy bay. Từ đó, trên các hành lang vận tải, ĐSCT   dành cho Indonesia là 40 năm bao gồm 60% khoản vay
        thu hút tới 50% lưu lượng hành khách chuyển đổi từ đường   bằng USD với lãi suất 2%/năm và 40% khoản vay bằng
        sắt thông thường, gần 25% từ xe khách đường dài, 10% từ   NDT  với  lãi  suất  3,46%/năm.  Giá  vé  trung  bình  đi  toàn
        hàng không cũng như tạo ra khoảng 15 - 20% lưu lượng   tuyến khoảng 12USD, công suất luồng hành khách dự kiến
        mới [3]. Từ đó, các tuyến ĐSCT 350 km/h được sử dụng với   là 29.000 HK/ngày tại thời điểm bắt đầu vận hành và lên tới
        công suất luồng hành khách trung bình 40 triệu HK/năm   44.000 HK/ngày sau 5 năm, từ đó dự kiến thời gian hoàn
        với doanh thu trung bình 0,074 USD/HK.km có mức doanh   vốn là 23,7 năm nếu có vận hành TOD (Transit Oriented
        thu từ vé đủ chi trả cho hoạt động vận hành, bảo trì và chi   Development) và 40,2 năm nếu không vận hành TOD.
        phí tài chính. Ngược lại, các tuyến ĐSCT 250 km/h với công   Tuyến  ĐSCT Jakarta - Bandung được đưa vào triển
        suất luồng hành khách 10 - 15 triệu HK/năm, doanh thu   khai xây dựng từ đầu năm 2016 và dự kiến hoàn thành vào
        trung bình 0,041 USD/HK.km hầu như không thể chi trả đủ   tháng 10/2019. Tuy nhiên, do những lý do nhất định nên
        cho vận hành và bảo trì đoàn tàu.                    việc xây dựng và chuyển giao đoàn phương tiện chỉ được
            Bên cạnh đó, Trung Quốc quản lý rủi ro an toàn trong   hoàn thành vào tháng 6/2022, chậm hơn dự kiến hơn 2,5
        suốt vòng đời dự án bằng cách đảm bảo công nghệ phù   năm. Các lý do được trình bày chủ yếu do dịch Covid-19
        hợp trong giai đoạn thiết kế, đảm bảo chất lượng xây dựng   hoặc mưa lớn và lũ quét lặp lại nhiều lần vào tháng 1 -
        và thiết bị, kiểm tra và bảo trì kỹ lưỡng trong vận hành.   2/2020. Tuy nhiên trên thực tế, các vấn đề phát sinh của
        Các dữ liệu về tình trạng trang thiết bị kỹ thuật được kết   dự án chủ yếu là:
        hợp kiểm tra thực tế và thử nghiệm bằng thiết bị đo đạc.   (1) Rủi ro chậm trễ do giải phóng mặt bằng: Vấn đề giải
        Những dữ liệu này được phân tích tập trung để xác định   phóng mặt bằng không chỉ là vấn đề giữa doanh nghiệp
        các yêu cầu bảo trì. Trong quá trình vận hành, một đoàn   và người dân mà còn là vấn đề về chính sách về quyền sử

                                                                                                          113
   109   110   111   112   113   114   115   116   117   118   119