Page 233 - Văn hoá Huế
P. 233

Vài nét...





                                                                       (Tiếp theo trang 87)

               1.  Lễ Năm mới vào mồng 4 tháng Giêng;
               2.  Lễ Du xuân hành lạc, tổ chức hội vật: 1 heo;
               3.  Lễ Tảo mộ vào 16 tháng Ba (chiều 15 sắm 1 heo làm lễ Túc yết, sáng 16 sắm
            1 trâu và giấy áo 1000 tờ;
               4.  Lễ Kỳ yên 1 heo, 1 thuyền rồng (giấy);
               5.  Lễ Chánh kỵ ông Mai, bà Mai (người có công đức, vốn là Khai canh làng
            Công Lương) vào ngày 04 tháng Tư (chiều mồng 3 sắm 13 mâm quả phẩm, mỗi
            mâm 5 thứ quả, mỗi loại quả 5 trái, đặt hương án cáo tại chùa. Sáng mồng 04 cúng
            1 bò, cỗ xôi, cỗ hào soạn;
               6.  Lễ Thu tế tháng Bảy: Cỗ Thái lao;
               7.  Lễ Tiên hồ (hội Bồi) cúng 8 gà trống, xôi, giấy, cau trầu rượu;
               8.  Lễ Hạ điền tháng Mười: 1 heo;
               9.  Dâng cúng áo giấy phụng thờ tại đình, tại miếu Ông, miếu Thái Giám, miếu
            Thành Hoàng, miếu Thần Nông - Hoàng Đế, miếu Khai canh, Khai khẩn, án phụng
            thờ ông Mai, bà Mai tại chùa, tại miếu Bà;
               10. Lễ Tam tiết nhật, lễ Tam nguyên, lễ Đoan ngọ. Trong số điều còn lại, có
            điều ghi đủ 20 họ theo thứ tự để viết văn sớ: họ Phan, họ Võ, họ Phạm, họ Trần, họ
            Hoàng, họ Lê, họ Đặng, họ Đinh, họ Hà, họ Nguyễn, họ Lê, họ Nguyễn, họ Lê, họ
            Nguyễn, họ Đào và họ Ngô điều ghi liệt vị.
               Các khoản khác nói về việc dân làng được chọn đất ở xứ Hạ điền, xứ Cồn Dương
            để lập phân mộ, không nạp tiền. Các xứ đất khác, như xứ Đạc Nhì, Phú Trung Điền
            Năm, xứ Thượng Điền Hạ phu thì phải nạp tiền 5 quan, nếu lấy đất thổ Cồn Dương
            Thượng thì nạp tiền 3 quan. Và lệ nạp trâu và tiền để làng lo gánh đám.
               Ngoài ra là các điều về cấp tiền tuất và 2 điều liên quan nghề làm áo giấy, giấy
            tiền, con ảnh của làng. Cụ thể là:
               Điều 38: một khoản bổn làng lại làm nghề áo giấy, giấy tiền, trừ người trong làng
            ra không theo lệ cấm, còn như con gái trong làng gả về làng khác và những người
            ngụ cư mà tự tiện làm nghề này, nếu bắt được thì thưởng cho người bắt 3 quan và
            phạt vạ người kia 1 con heo giá 10 quan, 1 mâm cau trầu rượu. Nếu không tuân lệ
            cấm thì cứ thu ở cha anh người ấy tiền đủ số.
               Điều 40: một khoản lệ định làm ảnh vẽ hạng lớn dài 1 thước 8 tấc, hạng trung 1
            thước 4 tấc, hạng nhỏ 1 thước, dùng giấy màu, mỗi trăm tờ giảm 10 tờ hiện còn 90
            tờ. Ai làm trái chịu vạ 1 con heo giá tiền 10 quan, 1 mâm cau trầu rượu và thưởng
            cho người bắt được y lệ.
               Ngày 18 tháng 3 năm Tự Đức thứ 15 (1862)
               Bổn làng đồng ký tên hay điểm chỉ.
               Lãnh binh Thái (làm quan tại An Giang và các chức Cai đội, Chánh Đội trưởng,
            Đội trưởng, Cửu phẩm, Thư lại, Ngũ trưởng, Binh, Khóa sinh và Dịch mục Quý
            điểm chỉ).

                                                               SỞ VĂN HÓA VÀ THỂ THAO THÀNH PHỐ HUẾ   231
   228   229   230   231   232   233   234   235   236   237   238