Page 31 - Người Hà Nội
P. 31
Nhà văn NGUYỄN NGỌC TIẾN Phong tục Tết
qua một số ghi chép, văn thơ cổ
rong bản thảo “Nguồn gốc Tết Cổ nhân nói “Phi tửu bất thành lễ”, tuy nhiên Nguyên Đán ở Đại Việt: “Vào dịp Tết quan to
Nguyên Đán ở Việt Nam” hiện lưu trữ không phải rượu nào cũng được uống trong ba được biếu nhiều nên tất niên đã đem đãi bà con
tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia 3, học ngày Tết. Rượu uống Tết phải có tác dụng ngăn thân hữu và cho lính tráng để ai cũng có cảm
Tgiả Trần Văn Giáp (1902 - 1973) cho bệnh và có ý nghĩa tín ngưỡng tâm linh. Trong tưởng được dự vào Tết”. Thời Lý, Trần có tục vô
rằng, người Việt ăn Tết Nguyên đán từ đầu bài “Nguyên nhật” (Ngày mồng một Tết), Phùng cùng nhân văn, con trai nhà nghèo không có
thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên. Khắc Khoan liệt kê có ba loại rượu Tết: “Khi mà tiền làm đám cưới nhưng nếu cô gái mà anh
Về Tết Nguyên Đán, giáo sư Trần Quốc một chạp đã xoay vần/ Mừng bấy đông qua lại ta thương đồng ý đêm 30 họ về ở với nhau thì
Vượng (1934 - 2005) trong bài “Văn hóa Tết và đến xuân/ Rượu bách đầu năm trừ giá lạnh/ Rót cha mẹ cô gái sẽ không mang tiếng và dân
Tết văn hóa” đã viết: “Cái Tết mà như ngày nay chén Đồ Tô đà rảnh việc/ Mâm tiêu dâng kính đón làng cũng không móc máy, dè bỉu.
bắt đầu khoảng trước Công nguyên hơn 100 lương thần/ Lại đem ngũ phúc chúc cha thân”. Tết có những nghi thức và kiêng kỵ chung
năm, từ đời Hán và có cội nguồn đan xen văn (GS.TS Kiều Thu Hoạch dịch) song không ít địa phương có tục riêng. Thăng
hóa Việt - Hoa. Tết là đọc trại của chữ Tiết, Rượu bách là rượu ngâm với những miếng Long là kinh đô, nơi có vua quan, có trí thức
Nguyên là sơ khai, đầu tiên, Đán là buổi sớm, gỗ bách nhỏ, cây này chịu được rét nên xưa có Nho giáo, người buôn bán và làm nghề thủ
Nguyên Đán là buổi sớm đầu tiên của ngày đầu tục ngày Tết người ta mời uống rượu bách để công nên ngày Tết cũng có khác, tục cũng
tiên của tháng đầu tiên của năm mới. Tết trừ phòng hàn và cũng là lời chúc sống lâu khác. Thời Lê, sáng mồng một, khi nghe trống
Nguyên Đán là Tết mừng năm mới”. trăm tuổi. Đổ Tô là tên gọi một loại lều cỏ. canh điểm giờ (có thể là giờ Mão hay Dần), ba
Thơ về Tết, về xuân thì xưa nay khá nhiều Tương truyền xưa có người sống trong lều cỏ, cỗ thần công trong thành bắn đạn, lúc này
nhưng nói về phong tục truyền thống lại khá vào ngày cuối năm đã đem ngâm túi thuốc có vua cởi hoàng bào, tắm nước lạnh sau đó mặc
kiệm. Có thể Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan nhiều vị xuống giếng thơi, sáng mồng một hoàng bào mới ra thiết triều tại đại điện. Các
(1528 - 1613) là người sớm nhất đưa phong tục múc nước giếng pha vào rượu, mời mọi người hoàng tử và đình thần đã trực sẵn, chờ triều
Tết vào thơ. Trong bài chữ Hán “Nguyên Đán uống sẽ trừ được dịch bệnh trong cả năm. Còn bái. Xong, vua lui vào cung để nhận lễ của
thư đường” (Tết Nguyên Đán ở phòng đọc mâm tiêu là một loại rượu ngâm với rễ và quả hoàng hậu, phi tần, cung tần, thị nữ. Đêm 30
sách) ông viết: liêu tiêu có mùi thơm cay có tính kháng Tết, khi trống canh điểm giờ chính Tý, dân
Nhà tranh đêm gió đông vào khuẩn cao với nhóm vi khuẩn lỵ và thương chúng trong thành sẽ ra đình, đền, chùa lễ. Sư
Tin truyền xuân đến từ đầu canh năm hàn, trừ được tà khí. Theo phong tục cổ, mồng trụ trì, người coi đình, đến sẽ phát lộc, lộc là
Biết xuân là cỏ trong sân một Tết, con cháu trong nhà đặt rượu tiêu vào những cành nhỏ có chồi và lá non, ai ra muộn
Bùa trừ tà quỉ chẳng cần đào thiêng mâm dâng kính ông bà, cha mẹ để chúc thọ sẽ được cho một nén hương tượng trưng lộc
(GS.TS Kiều Thu Hoạch dịch) nên tục đó gọi là rượu mâm tiêu. Trịnh Hoài mang về thắp ở bàn thờ gia tiên. Trước Tết
Bùa trừ quỉ là gì? Xưa, Tết được tính từ 23 âm Đức (1765 - 1828) làm quan triều Nguyễn đi nhà nào ở Hà Nội cũng gói bánh chưng dài
lịch, ngày theo tín ngưỡng ông Công, ông Táo về công tác sang Campuchia đúng dịp Tết đã cảm tròn biểu tượng cổ xưa về sinh thực khí và
thiên đình. Từ ngày này cho đến giao thừa, thời tác “Nguyên nhật khách Cao Miên quốc” (Ngày bánh chưng vuông, tượng trưng cho triết lý
điểm ông Công, ông Táo trở lại hạ giới thì vũ trụ mồng một Tết đang làm khách ở Cao Miên) có trời tròn đất vuông xuất hiện muộn mằn hơn.
vô chủ tâm linh. Thừa cơ hạ giới không ai cai câu: “Quê người rượu bách ai mời chén/ Vườn Nhưng nhiều gia đình nhà Nho ở Thăng Long
quản, ma quỉ hoành hành dọa nạt lương dân. Từ cũ cây đi vắng dự trò/ Đào thắm đỏ chen đèn không gói bánh chưng dài tròn vì quan niệm
thế giới thực đến thế giới ảo chẳng có gì hoàn đánh cá/…” (Đào Phương Bình dịch). Tức là tròn đâu cũng lăn là biểu tượng sự láu lỉnh. Họ
hảo, điểm yếu cốt tử của ma quỉ là chúng rất sợ đầu thế kỷ 19 vẫn còn tục uống rượu bách vào cho rằng Nho sĩ phải là vuông vắn, có góc
màu đỏ nên nhà nhà lấy mảnh gỗ sơn màu đỏ dịp Tết và hoa đào đã thay đào phù. cạnh. Khi tả về người Thăng Long uống rượu
rồi vẽ hình ông Thần Đồ và Uất Lũy, khắc tinh Với các Nho sĩ, không chỉ “Minh niên khai Tết danh Nho Phạm Đình Hổ (1768 - 1839) đã
của ma quỉ treo ở cửa. Miếng gỗ đó gọi là bùa đào bút bút khai hoa” vào sáng mồng một mà còn viết trong “Vũ Trung tùy bút” là uống chén nhỏ
(chữ Hán là Đào Phù). Sau đó người Việt thay bùa viết chữ “Nghi Xuân” (hợp với mùa xuân) vào để mặt hồng hào cho câu chuyện thêm nồng.
đào bằng cành hoa đào và ngày nay, đào mang ý giấy rồi dán ở cửa sổ để cầu phúc đón xuân coi Theo quan niệm của các triều vua, nhiều tục
nghĩa trang trí. Về tục này, bài “Tứ thời khúc đó như bùa thiêng. Trong “Tứ thời khúc vịnh” cổ bị bãi bỏ. Trong nửa cuối thế kỷ 20, nhiều tục
vịnh” bằng chữ Nôm của Hoàng Sĩ Khải (người cũng nhắc đến tục này “Tú Mi là thiếp, Nghi bị cái tiếng hủ lậu nên cũng không còn, có mỹ
đỗ tiến sĩ năm 1544, làm quan triều Mạc rồi Lê Xuân là bùa”. Báo Thanh Nghị số 29-31 tháng tục biến mất. Ngày nay, nghi lễ Tết đơn giản, ăn
Trung Hưng) có câu: “Đào phù cấm quỉ phòng linh 2/1943, dịch lại ghi chép của Linh mục Gio- uống không cầu kỳ, nhiều phong tục chỉ còn
ngăn tà”. vanni Filippo de Marini (1608 - 1682) về Tết tìm thấy trong kho tàng di sản tư liệu.