Page 65 - Hà Nội Mới - Số Tết Âm Lịch
P. 65
Xuân Ất Tỵ
Tết Việt. Ảnh: Tuyết Minh
NGUYỄN NGỌC TIẾN
Trong quan niệm dân gian, Tết Nguyên đán bắt đầu từ 23 tháng Chạp - “Tết ông Công ông Táo” và
kết thúc vào mùng 7 tháng Giêng - ngày hạ cây nêu, nhưng trọng tâm chỉ dồn vào ba ngày đầu năm
mới, từ mùng một đến mùng ba. Xã hội ngày càng thay đổi, dẫu vậy nhiều nghi lễ và phong tục vẫn
được duy trì đến ngày nay, song cũng có những nghi lễ, phong tục chỉ còn lại trong sách hay trong
các bài thơ xưa.
Tết ở chốn cung đình sau kiệu là các quan trong phẩm phục binh lính sẽ bắn loạt thần công. Thời Lê, Trong bài thơ “Nguyên nhật” ("Mùng
mới cưỡi voi đóng bành. Lại có các quan cho rằng nhà Mạc là ngụy triều nên vua một Tết"), Trạng Bùng Phùng Khắc
Vua có cha mẹ, tổ tông, vì thế ngày cưỡi ngựa. Đội vệ binh bảo vệ hai bên và cầm cung bắn năm mũi tên vào hình Khoan (1528 - 1613) đã nói đến ba loại
Tết cũng phải tuân theo phong tục cúng phía sau đều giương cờ bằng lụa hay tượng các nghịch vương nhà Mạc. Lúc rượu này:
lễ, mời tổ tiên về ăn Tết. Nhưng vua còn nhiễu, tay cầm binh khí nạm vàng hoặc này quân lính được lệnh tản ra ăn uống, “Tự tòng nhất khi chuyển hồng quân
là người đứng đầu đất nước nên thay mặt bạc. Khi vua xuất hành mà trời mưa thì vua nhìn quan quân uống chung chén Thặng hi niên lai tiết hậu tân
muôn dân thực hiện các nghi lễ mang dân chúng đứng hai bên đường sẽ hoan rượu trong tâm trạng hân hoan. Bách tửu khư hàn nghênh lệnh đán
tính quốc gia. Khi Thăng Long còn là hô đấng quân thượng vì đó là điềm lành Tiêu bàn hiến tụng lạc phương thần
kinh thành, chiều ngày 30, ngày cuối báo hiệu năm đó lũ không lớn và mùa Uống rượu ngày Tết Tiêu hồi tinh Đẩu thời hành Hạ
cùng của năm cũ, vua cho dựng cây nêu màng bội thu. Nếu hoàng bào của đức Án tích đồ thư nhật hữu xuân
trong Hoàng thành để dân chúng sau đó vua bị mưa ướt, ngài sẽ vui mừng bởi đó Tết xưa, người ta cúng tổ tiên bằng Chước liễu Đổ tô vô tá sự
dựng theo. Cây nêu mang tính tín là dấu hiệu long ỷ vững vàng, ngài sẽ tại rượu truyền thống nhưng lại uống rượu Túc tương ngũ phúc chúc linh xuân”
ngưỡng, để đón giọt nắng đầu tiên vị lâu dài. Vua xuất hành ra ngoại ô sau ngâm thảo mộc. Có ba loại gồm rượu (Nghĩa là: “Từ khi khí trời đã xoay vần
nhưng cũng là để xua đuổi các thế lực đó quay về hoàng cung để quan, lính và Bách, Đổ tô và Mâm tiêu. Từ trước Tết theo tạo hóa/ Lại mừng năm mới tiết trời
hắc ám. Vào giờ Dần (từ 3h - 5h) sáng dân về chung vui cùng gia đình. Vua trở người ta đẽo thân cây bách thành những đổi mới/ Uống rượu ngâm cây Bách đầu
mùng một, lúc bốn góc thành bắn loạt về cung, theo phong tục Đại Việt, mâm miếng nhỏ ngâm với rượu. Bách là loại năm trừ tà khí đón ngày đầu xuân/ Dâng
đại bác, vua sẽ tắm nước lạnh sau đó cơm của ngài có ngũ tân (gồm năm vị cây chịu rét, lá tươi lâu, do vậy người dân tụng rượu hoa Tiêu chúc thọ vui buổi
thay Hoàng bào mới ra thiết triều. Các cay là hành, tỏi, hẹ, rau răm, rau cải) để tin rằng uống rượu Bách sẽ chống được lương thần/ Chuôi sao Bắc Đẩu xuôi
quan đại thần, hoàng tử đã chực sẵn trừ lạnh cũng là đón mừng năm mới vì lạnh giá mùa đông và sống lâu như cây dần, thời tiết theo lịch nhà Hạ/ Bàn xếp
chúc vua vạn thọ. Vua nhận lễ xong thì chữ “tân” nghĩa là cay đồng âm với chữ này. Thứ hai là rượu Mâm tiêu. Cây liêu sách vở vui tháng này vui cảnh xuân/
lui vào cung để nhận lễ từ hoàng hậu, “tân” có nghĩa mới. tiêu còn gọi là cây thù du (hay thù nhục, Rót rượu Đổ tô chúc nhau xong không có
các phi tần và thị nữ. Nghi lễ thứ hai là sáng mùng ba Tết, táo bì), trong Đông y liêu tiêu có thể trừ việc gì nữa/ Chỉ có việc là đem ngũ phúc
Ngày Tết trong các triều đình phong ngày cuối cùng của ba ngày Tết, tại một được tà khí, ngăn được thương hàn, lỵ và
kiến vốn có rất nhiều nghi lễ, nhưng có cánh đồng rộng bên ngoài thành, quần giúp hạ huyết áp, lợi tiểu. Người xưa chúc thọ phụ thân”).
hai nghi lễ quan trọng. Nghi lễ thứ nhất thần đã chuẩn bị sẵn súc vật tế thần sau ngâm hoa và quả liêu tiêu khô với rượu. Trịnh Hoài Đức (1765 - 1825) là công
là vua xuất hành du xuân. Sau khi nhận đó sẽ làm cỗ. Họ cũng được lệnh thiết lập Trong bữa cơm sáng mùng một Tết thần triều Nguyễn, ngày Tết nhưng vua
lễ của hoàng hậu và các phi tần, thị nữ, sẵn những hương án thờ các tướng lĩnh và mừng năm mới, con cháu trong nhà đặt Minh Mạng cử ông phải đi công cán ở
vua sẽ vào thư phòng viết hai chữ “nghi binh lính tử trận vì nước mang lại bình yên hũ rượu vào mâm dâng kính lên ông bà, Cao Miên, nhớ Tết quê nhà nên cảm
xuân” (hợp với mùa xuân) dán lên cửa cho xã tắc. Song không chỉ có hương án cha mẹ và các bậc huynh trưởng để khái viết bài “Nguyên đán khách Cao
chỗ vua ở để cầu phúc, đón xuân đồng thờ tướng lĩnh của triều đình, tư tưởng hòa chúc thọ. Vì đặt trong mâm nên gọi là Miên quốc” (“Tết nhưng phải làm khách
thời cũng là bùa, trong lúc ấy, ở cổng hiếu của người Việt còn thể hiện ở việc có rượu Mâm tiêu. Loại thứ ba là rượu Đổ tô. ở Cao Miên”). Trong bài thơ có câu
thành quan quân đã chuẩn bị sẵn kiệu cả hương án thờ các tướng giặc đã xâm “Đổ tô” nghĩa là lều cỏ. Tương truyền xưa “Khách địa tùy thương Bách tửu yêu”
cho ngài du xuân. Người xưa nói: “Vạn lược, thống trị Đại Việt và bị chết trận như có một người sống trong lều cỏ. Vào (“Đất khách ai người đem mời rượu
vật khởi ư xuân” (vạn vật bắt đầu từ mùa sự ân xá tội lỗi của họ. Sau khi vua lễ bốn ngày cuối năm anh ta đem ngâm túi Bách”). Tức là tục uống rượu Bách vẫn
xuân). Trong “Kinh Lễ” của Khổng Tử có phương cúng vong linh, ngài sẽ đốt thuốc có nhiều vị xuống giếng thơi và duy trì đến thời Nguyễn.
câu: “Nghinh xuân ư Đông giao” nên vua hương, trầm dâng cúng khấn các bậc anh sáng mùng một múc nước giếng pha với Tết nay khác nhiều với Tết xưa, lễ
sẽ du xuân ở hướng Đông bên ngoài hùng đã quá cố che chở cho nước nhà rượu mời mọi người trong làng cùng nghi, phong tục, kiêng kỵ đơn giản hơn
thành. Theo thuyết Ngũ hành, phương bình yên trong tiếng kèn tiếng đàn trầm uống. Bắt nguồn từ tích này đã hình nhưng vẫn giữ hồn Tết. Trước Tết nhà
Đông thuộc mộc lại chủ về mùa xuân, do buồn. Nghi lễ này còn có ý nghĩa khác, đó thành tục sáng mùng một Tết người ta nào cũng ra mộ mời người đã khuất về
vậy vua ra ngoại thành nơi có cỏ cây hoa là làm cho những kẻ có lòng bội phản, lấy rượu ngâm với nhiều vị thuốc mời ăn Tết, đó chính là tín ngưỡng âm dương
lá để đón khí xuân là thuận tự nhiên. còn sống hoặc đã chết, tiệt ý định bén nhau với ý nghĩa trừ dịch bệnh và chúc đoàn viên chỉ có ở trong Tết Nguyên đán
Kiệu vua rất nhiều người khiêng. Theo mảng đến biên thùy. Vua làm lễ xong năm mới khỏe mạnh, không đau ốm. của người Việt.
64