Page 189 - Văn hoá Huế
P. 189
nhân Ca Huế, tranh ảnh, sách báo về ca Huế. Huế đã có một thính phòng Ca Huế biểu
diễn thường xuyên vào tối thứ ba, thứ sáu hằng tuần với sự tham gia biểu diễn của các
nghệ nhân ca Huế nổi tiếng như: Nghệ nhân dân gian Minh Mẫn, Thanh Hương, Thanh
Tâm, Kim Vàng, Quỳnh Hoa, NSƯT Khánh Vân, NSƯT Thu Hằng, Kim Liên, Xuân
Thu, Hồng Thanh, Thu Hiền, Mai Sao… bên cạnh các nhạc hữu tài danh: NSƯT Thái
Hùng, Hương Hoa, Lệ Hoa, Trần Thảo, Trần Huế, Ngọc Hùng… và một dàn nhạc công
trẻ như Trần Diệp, Đỗ Trung Thành, Nguyễn Hưng, Quốc Khánh, Nguyễn Đình Hưng,
Thùy Dương…; diễn viên trẻ như Ý Nhi, Thiên Phúc, Ý Linh, Mỹ Duyên, Thảo Hạnh,
Ngọc Nhẫn, Kim Châm, Khánh Châm… được đào tạo bài bản từ trường Trung cấp Văn
hóa Nghệ thuật, Học viện âm nhạc Huế hay từ các “lò” nghệ nhân lớp trước.
Ngày nay, Ca Huế thính phòng đã thu hút đông đảo các du khách du lịch không chỉ
trong nước; mà còn thu hút khách du lịch đến từ các nước như Mỹ, Italy, Pháp, Nhật
Bản, Ấn Độ… Việc thu hút du khách nước ngoài là điều đáng mừng, góp phần đưa loại
hình văn hóa phi vật thể của vùng đất Cố đô đến với du khách gần xa.
2. Ưng Bình Thúc Giạ Thị và những đóng góp trên lĩnh vực nghệ thuật
Ưng Bình Thúc Giạ Thị tên thật là Nguyễn Phúc Ưng Bình (Ưng Bình là tên, hiệu là
Thúc Giạ Thị) . Cụ sinh ra tại làng Vỹ Dạ, trong một gia đình hoàng tộc (danh gia vọng
1
tộc), có truyền thống văn chương. Thân sinh là Hiệp tá Tiểu Thảo - Hường Thiết, tác giả
tập “Tứ Tự ca” và “Liên Nghiệp hiên thi tập”; thân mẫu là bà Nguyễn Thị Huệ, thông
thạo chữ Hán, có nhiều thơ Nôm được truyền tụng như “Nhớ quê”, “Thượng cầm hạ
thủ”, “Xuất giá”. Ông nội là Tuy Lý Vương Miên Trinh, tác giả bộ “Vỹ Dạ hợp tập”,
một nhà thơ nổi tiếng mà sinh thời vua Tự Đức đã ban câu: “Văn như siêu quát vô tiền
Hán/ Thi đáo Tùng Tuy thất thịnh Đường” lưu danh trong lịch sử văn học nước nhà.
Năm 1904, Ưng Bình tốt nghiệp Trường Quốc học Huế, đỗ đầu kỳ thi Ký Lục; năm
1909, đỗ cử nhân Hán học và bắt đầu con đường quan lộ. Từ Ký Lục, Ưng Bình được
bổ làm Tri Huyện, thăng Tri Phủ, rồi lần lượt thăng Viên ngoại, Thị lang, Bố Chánh
Hà Tĩnh, Tuần Phủ Phú Yên, Phủ Doãn Thừa Thiên. Năm 1932, Ưng Bình đã tích cực
tham gia vận động thành lập Hội An Nam Phật học Trung Kỳ. Năm 57 tuổi (1933), Cụ
hồi hưu được thăng hàm Thượng Thư Tri Sự. Lúc này, tuổi đã lớn nhưng cụ Ưng Bình
vẫn tham gia tích cực các hoạt động văn hóa, xã hội, được cử giữ chức Hội Trưởng
Hội Truyền bá chữ Quốc ngữ Trung Kỳ (1939-1940), bầu làm Viện Trưởng Viện Dân
biểu Trung Kỳ (1940-1945), nhằm tranh thủ quyền dân sinh dân chủ cho dân nghèo.
Năm 1943, Cụ được thăng Hiệp tá Đại học sĩ, lần lượt được bầu làm người đứng đầu
Vỹ Hương Thi Xã (1933-1945) và Hương Bình Thi Xã (1951-1961) cho đến cuối đời.
Ưng Bình Thúc Giạ Thị là một nhà thơ nổi tiếng của xứ Huế, Cụ đã để lại cho đời
gần 2.000 bài thơ chữ Quốc ngữ và chữ Hán như: Tập thơ “Lộc Minh Thi Tập” gồm
227 bài (thơ chữ Hán), “Tình Khúc Giạ” (xuất bản 1942), “Bán buồn mua vui” (xuất
bản 1954), “Đời Thúc Giạ” (xuất bản 1961), “Tiếng hát sông Hương” (xuất bản 1972),
“Thơ ca tuyển” (xuất bản 1992).
Trong tập thơ chữ Hán Lộc Minh thi tập, Thúc Giạ đi nhiều, viết nhiều về các vùng
đất, di tích nổi tiếng như chùa Trà Am, chùa Thiên Mụ, núi Ngự, sông Hương ở Huế,
sông Ngưu Chữ ở Hương Khê; Đầm Cầu Hai; núi Bạch Mã ở Thừa Thiên; Ngũ Hành
Sơn ở Quảng Nam; sông Thạch Hãn ở Quảng Trị; núi Linh Phong ở Bình Định; động
1. PGS.TS. Đỗ Bang, Từ điển Lịch sử Thừa Thiên Huế, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 2000, trang 1048.
SỞ VĂN HÓA VÀ THỂ THAO THÀNH PHỐ HUẾ 187