Page 28 - Hạ Long
P. 28
Tư liệu mà tiến sĩ Nguyễn Văn Sơn công bố gần Thứ tư, Yên Tử nổi danh vì linh thiêng. Núi thiêng
Chùa Đồng - đích đến của hầu hết du khách, đây, với tôi rất có sức thuyết phục. là núi gắn với đời sống tâm linh của con người, trở
Phật tử khi đến tham quan, vãng cảnh Yên Tử. Vì sao Yên Tử trở thành một “danh sơn” (núi nổi thành “biểu tượng thiêng” của niềm tin tín ngưỡng
tiếng)? Có thể vì những lý do sau: tôn giáo, được nhân gian ngưỡng vọng, tôn thờ. Yên
Thứ nhất, Yên Tử nổi danh vì cảnh đẹp. Nhà bác Tử thiêng đến mức người trong nước phải tôn thờ,
học Phan Huy Chú (1782-1840) trong bộ sách Lịch người nước láng giềng cũng phải sang tế lễ, như
triều hiến chương loại chí từng ca ngợi: sách Đồng Khánh địa dư chí ghi chép lại:
“Núi Yên Tử cảnh trí lại càng lạ tuyệt. Trên núi “Năm Hồng Vũ thứ 3 (1379), nhà Minh (Trung
có cảnh đẹp như ngọn Tử Tiêu, am Ngọa Vân và Quốc) sai sứ sang làm tế lễ, vẽ hình thế núi sông ở
Long Động... Các chùa Hoa Yên, Sùng Nghiêm, đây để mang về. Năm Tự Đức thứ 3 (1850), Bộ Lễ
Quỳnh Lâm đều là cảnh chùa có danh tiếng thứ nhất vâng mệnh vua xếp núi này vào hạng danh sơn và
ở vùng ấy... Cảnh đẹp dấu thiêng, thật là những nơi ghi vào điển thờ”.
rất đáng thưởng thức”. Ở Việt Nam có mười chín dãy núi lớn như: Hoàng
Bài minh khắc trên chuông đồng chùa Hoa Yên Liên Sơn, Trường Sơn, Hoành Sơn, Tam Điệp,
trên lưng núi Yên Tử khắc năm 1834 thời Nguyễn Yên Tử... Mỗi dãy lại gồm nhiều ngọn núi. Chưa
thì ca ngợi: “Chùa ở núi này từ ngày Đức Điều Ngự kể những núi khác không nằm trong dãy thì núi ở
Giác Hoàng Trần Nhân Tông nhường ngôi vua đi Việt Nam phải kể đến hàng trăm. Không phải núi
tu hành đạo, đến nay lửa Thiền truyền còn lưu rực nào cũng linh thiêng. Trong tâm thức người Việt, núi
rỡ, vẫn là chùa núi nổi tiếng vào bậc nhất của nước thiêng thường gắn với “biểu tượng thiêng” nhân thần
Việt”. Nhiều lời ngợi ca trong thư tịch cổ chưa viện hoặc nhiên thần, như núi Tản Viên - nơi ngự của
dẫn ở đây. Sơn Thánh Tản Viên (Sơn Tinh),... Dãy núi Yên Tử
Thứ hai, Yên Tử nổi danh vì là nơi gắn bó cuộc không chỉ là nơi Arsaces/An Kỳ Sinh tu hành đắc
đời, hành trạng của những người nổi tiếng, như: pháp hóa đá trên đỉnh núi mà còn là nơi Đức Điều
Arsaces/An Kỳ Sinh, Thiền sư Hiện Quang - sơ tổ Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông hiển Phật, trở
của Dòng Thiền Yên Tử thời nhà Lý, Quốc sư Trúc thành Đức Phật của Việt Nam. Yên Tử còn là nơi
Lâm Đạo Viên - Người đặt nền móng tư tưởng cho kết tập tâm linh của hàng trăm Thiền sư đạo cao đức
Phật giáo Trúc Lâm, hoàng đế Trần Thái Tông - trọng đến tu hành, hóa thân về dưới Phật đài, khí
Tượng Phật hoàng Trần Nhân Tông ở tháp Huệ Quang
huyết chân linh, ngọc cốt, xá lỵ còn lưu lại, được thờ
Người tạo tiền đề Phật giáo Trúc Lâm đầu thời Trần,
Ngày xuân đã tôn vinh Arsaces là Tổ sư đầu tiên của Thiền tông Việt Quốc sư Đại Đăng, Thiền sư Tiêu Diêu, đặc biệt là ngôi tháp mộ... Yên Tử linh thiêng bởi là nơi phụng
được công nhận là Bảo vật Quốc gia năm 2020.
phụng trong các ngôi chùa, những vườn tháp, những
Phật Hoàng Trần Nhân Tông sáng lập Phái Thiền
thờ Phật, Thánh, Thần, Tiên, thờ Mẫu, thờ Tứ Phủ,
Trúc Lâm Yên Tử, Pháp Loa và Huyền Quang - Tam
Ngày xuân
thờ danh nhân và anh hùng dân tộc. Yên Tử mặc
Tổ làm hưng thịnh Phật giáo Trúc Lâm đến đỉnh cao,
nhiên trở thành “biểu tượng thiêng” trong đời sống
Nam. Bộ kinh điển mà thiền sư Khương Tăng Hội được tiếp
chưa kể các quốc sư, sư tổ, đại sư của Dòng Thiền
xúc buổi đầu noi theo trí huệ Phật Tổ là những trước tác dịch
Trước, Quốc Nhất cuối thời Trần, Viên Minh, Đạo
thuật của Arsaces từ tiếng Phạn (Pali) sang tiếng Việt cổ. Yên Tử thuộc đời sau như: An Tâm, Phù Vân, Vô tâm linh người Việt Nam.
Thứ năm, Yên Tử nổi danh vì là nơi ra đời của
Tiến sĩ Nguyễn Văn Sơn cho rằng: Tài liệu quan trọng Huệ, Viên Ngộ, Tổng Trì, Khuê Thám, Sơn Đằng, Phật giáo Trúc Lâm. “Phật giáo Trúc Lâm” là tên
mạn đàm về Yên Tử truyện cao tăng của thiền sư An Thế Cao - người sống cùng Nguyên, Vô Phiền... thời Nhà Lê. Vùng núi Côn Sơn thành từ tư tưởng Phật giáo của Quốc sư Trúc Lâm
Hương Sơn, Trí Dung, Tuệ Quang, Chân Trú, Chân
nhất liên quan đến An Kỳ Sinh/Arsaces là tác phẩm Lược
gọi của Phật giáo Đại Việt thời nhà Trần, được hình
- Kiếp Bạc - Phượng Sơn thuộc dãy núi Yên Tử còn
thời với thiền sư Khương Tăng Hội. An Thế Cao vốn là hậu
Đạo Viên và được tạo dựng bởi các thế hệ đệ tử kế
duệ của dòng dõi đế chế Parthia/Arsaces và là hoàng thái
nhàn lúc tuổi già, cũng là nơi các bậc danh sĩ như:
tử trong hoàng tộc Arsaces, có quan hệ huyết thống với là nơi Đức Thánh Trần Hưng Đạo Đại Vương dưỡng tiếp của ngài mà nòng cốt là Dòng Thiền Yên Tử
phát triển đỉnh cao thành Phái Thiền Trúc Lâm Yên
An Kỳ Sinh/Arsaces. Vì thông hiểu lịch sử đế chế Parthia, Chu Văn An (thời Trần), Trần Nguyên Đán, Nguyễn Tử (do Trúc Lâm Đại Sỹ Trần Nhân Tông sáng lập).
lịch sử thần phả dòng tộc Arsaces và đã từng đến kinh đô Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm (thời Lê) về ở ẩn... Xưa có Tuyệt nhiên không phải đến năm 1299 - khi Phật
TRẦN TRƯƠNG ề lịch sử địa chất hình thành núi Yên Tử, dựa Tử... tương truyền vì trước kia có ông Yên Kỳ Sinh tu Tràng An của nhà Tây Hán để dịch kinh và giảng giải Phật câu: “Sơn bất kế cao, hữu tiên tắc danh” (Núi không Hoàng Trần Nhân Tông về Yên Tử tu hành, sáng
kể cao, hễ có người tiên ở đó là nổi tiếng). “Người
vào cấu tạo phân lớp xiên chéo, có hóa thạch luyện ở đây, nên gọi là Yên Tử”. Sách Đồng Khánh địa pháp, cho nên hành trạng của Arsaces đã được ông tái hiện tiên” dùng để chỉ những người nổi tiếng được nhân lập ra Phái thiền Trúc Lâm Yên Tử thì Phật giáo Trúc
Vvỏ sò, vỏ ốc ở nhiều khối đá và sự hiện tồn của dư chí do vua Đồng Khánh triều Nguyễn ban sắc chỉ trong Lược khảo cao tăng truyện rất đầy đủ và chi tiết. Theo dân ngưỡng vọng, tôn thờ. Dãy núi Yên Tử không Lâm mới ra đời như một số sách báo thời gian qua
đó, An Kỳ Sinh/Arsaces (247 TCN - 158 TCN) vốn là hoàng
Nhân dịp đầu Xuân, loài sú vẹt trên đỉnh non Yên Tử, các nhà địa chất học biên soạn cũng cho rằng: “Tương truyền Yên Kỳ Sinh thái tử của đế chế Parthia. Vì chán ghét cảnh chiến tranh mà chỉ có một người tiên đến ở mà có hàng chục danh đề cập. Phật giáo Trúc Lâm được hình thành ngay
từ đầu thời Trần.
đã nhận ra dấu vết cổ của môi trường vùng cửa sông
tu luyện đắc đạo thành tiên ở nơi đây cho nên có tên
nhân liệt vào hàng Tiên, Phật, Thánh, Thần đến ở
phụ vương ngài vốn là người say mê quyền lực chỉ huy và
Phật giáo Trúc Lâm có nguồn gốc sâu xa từ Phật
xin được lạm bàn về Yên Tử. - ven biển cách đây chừng hơn 200 triệu năm trước gọi là núi Yên Tử”. Trước đó, nhà bác học lừng danh tổ chức chinh chiến, năm hai mươi tuổi, An Kỳ Sinh/Arsaces hoặc thường viếng thăm. Vì thế mà thành nổi tiếng! giáo Ấn Độ do Đức Phật Shakyamuni (Thích-ca
khi có đợt kiến tạo vỏ trái đất, cả vùng được nâng lên
Phan Huy Chú (1782-1840) cũng đã cho là vậy.
đã từ chối ngôi vương, nhường lại cho chú ruột. Ngài lên
Thứ ba, Yên Tử nổi danh vì tiếng thơm được lưu
Nhiều học giả thời nay cố công tìm kiếm thư tịch
Từ xa xưa, Yên Tử đã trở thành tên thành đồi núi, “thế gian biến cải vũng nên đồi” như cụ cổ đông tây để làm sáng tỏ Yên Kỳ Sinh là nhân vật đường truy tầm giáo lý Phật pháp. Năm ba mươi tuổi, ngài truyền rộng khắp từ nơi này sang nơi khác, từ đời Mâu-ni) sáng lập; có sự chọn lọc, tiếp thu tinh hoa
Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) từng đề
của Nho giáo, Đạo giáo, văn hóa tín ngưỡng dân
xuyên Trung Á đến kinh đô Hàm Dương của nhà Tần để
chung của cả một dãy núi thuộc Cánh cập trong thơ. lịch sử hay nhân vật huyền thoại, có xuất xứ từ đâu thuyết giảng Phật pháp. Tần Thuỷ Hoàng thấy ngài thông này sang đời khác, khiến Yên Tử vốn nổi danh lại gian và của các tông phái Phật giáo Thiền - Tịnh -
càng nổi danh hơn, như những câu ca đã trở thành
và hành trạng ra sao. Họ thống nhất cho rằng: An Kỳ
Về tên gọi của núi, từ thời tiền sử, người xưa đã dựa
Mật từ Ấn Độ, Trung Hoa đã truyền sang Đại Việt từ
cung Đông Triều. Dãy núi này chạy dọc vào hình dáng Tổ Sơn Yên Tử trông giống hình con voi Sinh là một nhà tu hành, vào thời Tần Thủy Hoàng hiểu nhiều giáo lý kinh điển và tri thức đương thời, nhất là về truyền ngữ: trước đó, nhưng tất cả đều đã được “cải tiến” cho phù
y dược nên đã yêu cầu ngài xuôi phương Nam để tìm thuốc
“Trăm năm tích đức tu hành
hướng Đông - Tây, khởi đầu từ Uông khổng lồ nằm phủ phục mà gọi là Tượng Sơn (núi Voi); đến Hạng Vũ (272 TCN - 202 TCN). Ngài đến Giao trường sinh bất lão. Chưa về Yên Tử chưa đành lòng tu” hợp với đặc điểm truyền thống văn hóa, tín ngưỡng
thấy trên núi có nhiều mây trắng bao phủ nên gọi núi
của người Đại Việt, đáp ứng được yêu cầu lịch sử
Chỉ từ phương Bắc, biết làm nghề thuốc, chữa bệnh
Năm 217 TCN, ngài dời kinh đô Hàm Dương đến Quảng
Bí, qua Đông Triều (Quảng Ninh) đến là Bạch Vân Sơn (núi Mây Trắng); thấy mây thường cứu người và nổi tiếng đương thời. Tên ngài dùng đặt Châu nghiên cứu Đạo giáo và Nho giáo. Trong thời gian “Nào ai quyết chí tu hành của thời Trần, được coi là “Đạo Phật Việt Nam”.
nổi bồng bềnh trên đó, gọi là Phù Vân Sơn (núi Mây
tên cho núi.
Phật giáo Trúc Lâm Đại Việt thời Trần - di sản
bảy năm nghiên cứu ở Quảng Châu, ngài đã nhiều lần thám
Chí Linh (Hải Dương), một phần thuộc Nổi); thấy núi linh thiêng, gọi là Linh Sơn (núi Thiêng); Tuy nhiên, về nhân vật lịch sử An Kỳ Sinh, vẫn hiểm đảo Hải Nam và quần đảo Gia Va. Năm 210 TCN, khi Chưa về Yên Tử chưa thành quả tu”. văn hóa phi vật thể là một trong những yếu tố cấu
“Ai về Yên Tử Quỳnh Lâm
có khi gọi tắt là Yên Sơn (núi Yên)... Song, tên gọi phổ
về các huyện: Sơn Động, Lục Ngạn, biến nhất vẫn là An Tử, vì kiêng húy gọi chệch thành hiện tồn hai ý kiến khác nhau: nghe tin Tần Thuỷ Hoàng băng hà, ngài không trở về Hàm Vĩnh Nghiêm chưa đến thiền tâm chưa đành”. thành giá trị nổi bật toàn cầu của Quần thể Di tích và
Danh thắng Yên Tử đang được trình Tổ chức Giáo
Dương mà xuôi biển Nam Hải đến tu Phật tại núi Yên Tử,
Thứ nhất, An Kỳ Sinh là đạo sĩ, tu Đạo giáo. Ông
Yên Tử, tồn tại đến ngày nay.
Lục Nam tỉnh Bắc Giang theo địa giới Lý giải vì sao núi có tên An Tử, tựu trung có hai người Phụ Hương Lang Gia (nay là Chư Thành Sơn nước Văn Lang vào năm 209 TCN. Người Trung Quốc cổ đại “Tu tây, tu đông dục, Khoa học và Văn hoá Liên Hợp Quốc (UNES-
đã phiên âm danh xưng Arsaces (vốn là danh từ chung chỉ
CO) công nhận là Di sản Văn hóa thế giới.
Chưa lên chùa Đồng chưa đắc quả tu”.
Đông), đã từng bán thuốc bên bờ biển, cao tuổi không
ngày nay. Đồng thời, Yên Tử cũng là tên luồng kiến giải: làm quan, được người đương thời gọi là Thiên Tuế dòng tộc Arsaces) sang tiếng Trung Quốc thành An Kỳ Sinh. Hay trong thơ Nôm Du Yên Tử Sơn nhật trình, Bạch Thanh danh Yên Tử truyền Nam Bắc
Bốn mươi năm trước, một số bậc cao niên ở vùng
Cũng theo Tiến sĩ Nguyễn Văn Sơn, đến giữa thế kỷ IV,
riêng của một ngọn núi cao nhất dãy, An Sinh (Đông Triều) đã cho rằng: Thuở xưa, dân về Ông. Tần Thủy Hoàng (259 TCN - 210 TCN) đông du, Cát Hồng (283-363), người từng sống dưới thời Đông Tấn Liên Tiểu Sỹ thời nhà Lê nhắn nhủ: Chính pháp Trúc Lâm trụ đất trời.
mời nói chuyện ba ngày ba đêm, tặng vàng đến hàng
“Anh em hỡi kẻ tu hành
Hy vọng trong năm Ất Tỵ này, Yên Tử trở thành
1.068m so với mực nước biển, được đây sinh sống, thấy vùng đất này an vui nên gọi là An ngàn vạn, ông đều trả lại, bỏ về quê, để lại ngọc đỏ mà (317-420) đã mạnh mẽ bác bỏ quan niệm cho rằng An Kỳ Có vào Yên Tử mới đành lòng tu”. Di sản Văn hóa thế giới!
Sinh. Vào đầu thời Trần, vùng đất An Sinh rộng lớn,
Sinh là người Trung Quốc. Cát Hồng là một nhà thông thái
báo, lưu lại thư cho Tần Thủy Hoàng: “Mười mấy năm
coi là Tổ Sơn (Núi Tổ), tọa lạc trên địa bao gồm một phần diện tích Đông Triều, Kinh Môn, sau tìm ta ở chân núi Bồng Lai”. Khi Thủy Hoàng bại, trong lịch sử văn hóa Trung Quốc. Ông được tôn xưng là
Chí Linh ngày nay. Ở về phía Nam vùng An Sinh có
truyền nhân chân chính đời thứ 4 của đạo sĩ Tả Từ (sống vào
An Kỳ Sinh cùng bạn là Khoái Thông đi lại với Hạng
bàn Uông Bí (Quảng Ninh). Điều này dải núi chắn ngang trước mặt, sau lưng có dãy núi Vũ. Hạng Vũ muốn phong chức cho họ, họ không chịu đầu thời kỳ Tam quốc). Cát Hồng tên tự là Trĩ Xuyên, hiệu là
cao hơn án ngữ. Vì nhà ở thời xưa thường quay mặt
nhận. Về sau, An Kỳ Sinh “nhập Việt”, về Yên Tử - nơi
Bão Phác Tử. Ông được xem là nhà triết học, nhà hóa học,
đã được thư tịch cổ (dư địa chí, văn về hướng Nam được cho là hướng cát tường (tốt lành), có khoáng thạch và nhiều thảo dược - để luyện đan, nhà y học thời cổ của Trung Quốc, am hiểu sâu sắc Đạo
sáng dậy mở cửa đã nhìn thấy trước dãy núi phía Nam.
bia, mộc bản, bài vị thờ Tam Tổ Trúc Dãy núi sau lưng nhìn thấy sau. Dựa vào quan niệm làm thuốc cứu người. Cũng vì danh tiếng và sự ngưỡng giáo, có tác phẩm/công trình đáng chú ý nhất là bộ Lịch sử
Đạo giáo Trung Hoa. Ông đã sưu tầm nhiều nguồn tài liệu
mộ về đạo đức, luyện đan cứu người của ông mà ngọn
Lâm...) ghi chép lại rất rõ ràng, như “cha sinh trước, con sinh sau” nên họ đặt tên dãy núi núi thiêng vốn tên là Bạch Vân Sơn sau được mang về An Kỳ Sinh, trong đó có những ghi chép của thiền sư
trước mặt là núi An Cha (An Phụ Sơn) và dãy núi sau
Khương Tăng Hội và thiền sư An Thế Cao về An Kỳ Sinh.
tên “An Tử” tức tên tiên nhân An Kỳ Sinh. Đại diện cho
sách Đồng Khánh địa dư chí do Quốc lưng là An Con (An Tử), cả hai đều gắn với vùng An luồng kiến giải này có các học giả: Nguyễn Duy Hinh, Cát Hồng chỉ rõ: Arsaces xuất phát từ Ba Tư đi truyền bá
Sinh. Ở đây, An Tử được đặt tên trong mối quan hệ
Trần Lê Bảo...
sử quán triều Nguyễn soạn: "Núi Yên “Cha - Con” với An Phụ - một dải núi chạy gần song Thứ hai, An Kỳ Sinh là thiền sư, tu Phật giáo. Tiến đạo Phật, xuyên đại lục Trung Hoa. Khi gặp Tần Thủy Hoàng
để thuyết pháp, Arsaces không được Tần Thủy Hoàng tiếp
song, tọa lạc về phía Nam dãy núi An Tử.
Tử... liên tiếp chạy dài hơn mười ngọn, Khác với kiến giải trên, giới học giả xưa nay lại cho sĩ Nguyễn Văn Sơn khẳng định: Ngay từ đầu thế kỷ đón trọng thị mà còn có phần bài xích đạo Phật. Tần Thủy
Hoàng sai ông ra đảo Hải Nam tìm thuốc trường sinh bất lão.
thứ III, thiền sư Khương Tăng Hội (196-280), người
cao nhất là ngọn Yên Tử". Ấy thế mà rằng: An Tử chính là tên gọi Thầy An mà thành (để tránh Giao Chỉ, được coi là sơ tổ của Thiền tông Việt Nam Nhân cơ hội đó, Arsaces thâm nhập vùng ngoại Lĩnh (phía
tên húy, gọi chệch là Thầy Yên). “Tử” nghĩa là “Thầy”,
nam dãy núi Ngũ Lĩnh thuộc lãnh thổ nhà nước Văn Lang),
đã khẳng định An Kỳ Sinh chính là Arsaces, người Ba
thời nay vẫn có người coi Yên Tử thuộc An Tử có nghĩa là Thầy An, giống cách gọi Khổng Tử là Tư (thuộc Iran ngày nay), đã đến kinh đô Hàm Dương, tu ở núi Yên Tử, không trở về nước Tần nữa.
Thầy Khổng. Thầy An chính là An Kỳ Sinh.
Thiểm Tây (Trung Quốc) yết kiến Tần Thuỷ Hoàng
Tiến sĩ Nguyễn Văn Sơn tuy không phủ nhận Arsaces
địa bàn Uông Bí (!). Về vấn đề này, Đại Thanh nhất thống chí - bộ sách để thuyết pháp bát chính đạo. Không được Tần Thuỷ (An Kỳ Sinh) đã từng nghiên cứu về Đạo giáo nhưng không
ghi chép về địa lý đời nhà Thanh (1606-1912) ở Trung Hoàng chấp nhận, Arsaces đã vượt biển Nam Hải, vào cho rằng Arsaces là đạo sĩ tu Đạo giáo mà khẳng định ngài
Quốc cho rằng: Núi Yên Tử là chỗ đắc đạo của Yên Kỳ châu Giao tu tập trong núi Yên Tử, đệ tử có đến hơn ba là thiền sư tu Phật giáo, khác với nhận định của nhiều học
Sinh nhà Hán (203 TCN-220). Do ảnh hưởng sử nhà trăm người theo học Phật pháp. Trong truyền thống hệ giả xưa nay, làm giàu thêm minh chứng, luận giải về hành
Thanh, Quốc sử quán triều Nguyễn chép: "Núi Yên phái thiền tông Việt Nam, thiền sư Khương Tăng Hội trạng nhân vật lịch sử An Kỳ Sinh. Đường tùng được coi một di sản quý ở Yên Tử.
28 Hạå Long Xuân Ất Tỵ 2025 Xuân Ất Tỵ 2025 Hạå Long 29
Xuân Ất Tỵ 2025
Xuân Ất Tỵ 2025