Page 20 - Hạ Long
P. 20

Về tấm bia đá
          Du ký
          Du ký                                                                                                                                                                                                                Về tấm bia đá


          về các ngôi chùa
          về các ngôi chùa                                                                                                                                                                                                     của vua Khải Định
                                                                                                                                                                                                                               của vua Khải Định



          ở Quảng Ninh
          ở Quảng Ninh                                                                                                                                                                                                         trong hang Đầu Gỗ
                                                                                                                                                                                                                               trong hang Đầu Gỗ


          nửa đầu thế kỷ XX                                                                                                                                                                                                                LÍ HỌC
          nửa đầu thế kỷ XX





            LA NGUYỄN HỮU SƠN (Viện Văn học)                Một góc chùa Quỳnh Lâm (Đông Triều).                                                                                                    Ảnh: TM



                                                             bài  Danh  thắng  Hải  Dương  (Núi  An  Tử):  “Về  đàng   cao mà thẳng như cán cân, lá rủ mềm mại và nhỏ lốt
                                                             đông. Phần này thường gọi là An Tử. Đường vào có   mắt, coi đẹp lắm, lại có rất nhiều các thứ lan sói, nhất
                                                             ba ngả. Một ngả từ Hải Phòng đi theo cầu máng nước   điểm, tố lan, phong lan, hắc lan, phượng lan, sói vàng,
                                                             vào chùa  Lân;  một  ngả  từ  Tràng  Bạch đi  qua  chùa   sói trắng, vân vân” (1936)... Bài thứ hai Luận về di tích
                                                             Cầm Thực vào chùa Lân; một ngả từ huyện lỵ Đông   chùa  Quỳnh,  tác  giả  bày  tỏ  ý  nguyện  cùng  các  nhà
                                                             Triều đi qua Bến Châu, rồi đi tắt qua đường nhỏ trong   quản lý, chư tôn chức sắc Phật giáo: “Tôi mong trường
                                                             núi vào chùa Lân”, đồng thời mô tả chi tiết biểu tượng   Bác Cổ nên làm cái nhà bia mà bảo tồn, lấy cái bia có
                                                             chùa Đồng: “Giữa đỉnh có một hòn đá cuội to bằng ba,   ghi hình thế chùa và pho tượng đồng ngày xưa, kẻo gió
                                                             bốn cái sập, cao bằng ngực người, mặt trên phẳng.   mưa làm mòn hết nét chữ. Bia ấy còn thì chùa Quỳnh
                                                             Người ta bày ba pho tượng Trúc Lâm Tam Tổ bằng   Lý - Trần còn, xin các ngài lưu ý” (1938)... Cuối cùng
                                                             đá mà nhỏ độ một thước Nam và cái bình hương bằng   là Bài ca vãn cảnh chùa Hồ Thiên kể rõ lai lịch bài vãn
                                                             đồng để khách lễ bái. Tượng thì trông về hướng nam...   được tác giả “viết từ hồi còn thiếu niên, năm 1910”, tiếp   Bìa cuốn sách “Từ Nam ra Bắc” của Hồ Văn Lang.
                                                             Sở dĩ gọi là chùa Đồng, cũng là một cái tên mới. Gần   đó dẫn giải dấu ấn cổ kim, thực trạng cảnh chùa đương
                                                             đây có người cúng một cái chùa nhỏ, gọng bằng đồng   thời rồi công bố toàn văn bài vãn ca dài 82 câu thơ...
                                                             như một cái nhà táng, lợp kẽm. Đem úp lên trên hòn   Một năm sau, sa môn Tố Liên thay mặt Hội Phật                 ấm bia đá tại hang Đầu Gỗ do vua Khải Định sai
                                                             thạch bàn kia. Song gió đánh đổ, nay còn bộ gọng   giáo Bắc Kỳ đã đến thăm và tham dự hội chùa Mang                khắc năm 1918 đã được Ban Quản lý vịnh Hạ Long
                                                             để ở dưới chân một bên thạch bàn. Hòn thạch bàn   Nhai thuộc huyện Móng Cái, “một nơi cách nước Tàu           Tphối hợp Viện Nghiên cứu Hán Nôm và Bảo tàng
                                                             này chắc là có sẵn ở đó, vì có nhân lực thì cũng là   chỉ có một cái cầu dài độ vài trăm bước”, đặt dưới sự   Lịch sử Việt Nam phục chế năm 2011 bằng việc khảo
                                                             chỉ kê lại cho tề chỉnh mà thôi... Ở đấy đã khỏi lớp   quản lĩnh của quan Tri châu Ngô Kiều Hợp. Trong bài    cứu, dịch lại văn bia, chạm khắc lại những chữ bị mất, mờ,
                                                             không khí nùng hậu mà vào lớp không khí hy bạc nên   viết Tấm đạo tâm của quan Tri châu Mang Nhai, tác        đảm bảo tính thẩm mỹ và giữ nguyên trạng tấm bia quý
                                                             cây to không mọc được, điểu thú cũng không, chỉ có   giả du ký - nhà sư kết nối công cuộc hoằng dương         giá này. Xem tài liệu cũ, thấy năm 1920, Hồ Văn Lang,
                                                             những cây trúc nhỏ mà lá to và những loài ong kiến. Ở   Phật giáo gắn với cội nguồn “chân lý nhân quả”, “cái   lúc đó là Tổng lý Thời báo tại Sài Gòn đã có chuyến du   Tác giả Hồ Văn Lang (ngoài cùng bên phải) chụp ảnh cùng đoàn Hội thương mãi kĩ nghệ An Nam ra Bắc
                                                             đây thường bị mây bọc, khi mây bọc thì chỗ đứng vẫn   pháp lực dắt rủ tiến hóa mạnh mẽ về đường tâm đức”,     hành ra Bắc tham dự Hội Đấu xảo, có lên thăm hang Đầu   năm 1920.
                                                             trông rõ, nhưng có loáng thoáng những hạt mưa nhỏ   “nghiệp báo tày trời”, khuyến cáo xây dựng nền Phật       Gỗ và ghi chép toàn bộ nội dung tấm bia đá này trong
                                                             rơi xiên vào. Còn trông ra chung quanh thì mờ mịt cả.   học dân tộc, thực hành tu nhân tích đức, bài trừ tên   cuốn sách có tựa đề “Từ Nam ra Bắc” do nhà in Hồ Văn   quyền  Sa  Lộ  công,  tự  Hải  Phòng  thừa  hỏa  luân   đá cảnh lạ, nhân đi thuyền nhỏ vào bờ, cầm tay ông
          Tháp Huệ Quang ở Yên Tử - nơi đặt tượng Trần Nhân Tông   Những hạt mưa nhỏ ấy là mây đó, vì nhỏ không đủ sức   nạn mê tín dị đoan (1939)...                      xuất bản năm 1924.                                  thuyền, lãm Lục Hải tố thượng Lục Đầu giang, kinh   ấy (tức Sarraut) đều lên cửa động. Nhưng thấy hang
          là bảo vật Quốc gia.                                                      Ảnh: TM  rơi xuống đất, lại nhiều lắm, nên ở xa trông như một   Cũng  ngay  trong  năm  này,  ký  giả  Cống  Chân   Theo lời nói đầu của cuốn sách, tác giả Hồ Văn Lang   quá kì quan thạch động, nhân hạ tiểu a để ngạn, huề   mở rộng, đá sáng lập lòa, đá dựng xung quanh như
                                                             đám khói, rồi bị gió thổi đưa đi, khi nào gặp khí lạnh   đương kim Thư ký Hội Phật giáo Hải Dương dẫn ban     được Chính phủ Nam Kì và Hội thương mãi kĩ nghệ An   thủ đồng đăng động khẩu. Đản kiến nham khiếu bài   sao giăng, như gấm trải, mù bay nóc giọt, lũ nọ đoàn
                                                             hơn mới tụ vào nhau thành hạt to mà rơi xuống thành   Kịch sang huyện Đông Triều thăm khắp miền Đồn           Nam phái ra để “quan sát Hội thương mãi Hà thành”. Vì   khai, thạch quang ẩn ước, yết quần tinh chi la liệt, bố   kia. Khi ấy đoanh mắt xa xem, nơi thời xanh xanh, biếc
          Tỉnh Quảng Ninh có nhiều danh lam thắng cảnh,      mưa” (Nam Phong tạp chí, 1931)...               Sơn, hang Son, động Hàm Long, bến Đụn, núi Mèo,               thế, mục đích của cuốn sách là tác giả “thuật lại những   ngũ sắc chi tân phân, trích lộ phi hà, đoàn đoàn thể   biếc, nơi thời đen đen, vàng càng, nơi mở màu son,
                                                                Bốn năm sau, trong một bài viết có nhan đề tương
          trải khắp vùng ven biển đến non cao và dọc dài     tự, Vũ Ngọc Lâm với Hành trình đi núi Yên Tử kể về   Cổ Phượng, Con Chuột, Đống Thóc, Long Mã và viết         điều đã tận mắt, tai nghe và thấy, nghe làm sao thì thuật   kiết. Nhất thời, cử mục túng quan, hoặc trình thương   nơi giăng sắc trắng kể đà không xiết. Quan cảnh xem
                                                                                                                                                                                                                               túy, hoặc thổ huyền hoàng, duệ bạch lưu đơn bất khả
          miền biên giới. Vào giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX    chuyến du ngoạn gồm 11 người, “khởi hành ở Kiến An   thành bài Một cuộc du lịch. Ký giả dẫn giải cảnh quan:   lại như vậy”. Cũng chính vì thế mà cuốn sách là một tài   danh  trạng.  Huyễn  nhiên  xuất  một  tường  vân,  thời   như một ánh tường vân thường thường quanh xây trên
                                                                                                                                                                           liệu ghi chép khá kĩ lưỡng, cẩn thận và chi tiết về những
                                                                                                             “Núi Mèo trông hình như con Mèo nằm phục, đằng
                                                                                                                                                                                                                                                                               mặt động; dạo chơ động đá nhiều cảnh tốt xinh, trải
          đã xuất hiện nhiều tác phẩm du ký viết về các      3 giờ sáng ngày mùng 5 tháng năm Tây năm 1935,   trước có hang trông xuống sông, trong hang có thờ            điều tác giả mắt thấy tai nghe trong chuyến hành trình ra   thời bàng nhiễu hồ kì thượng, thâm u tịch dĩ ngu tình   bước đường mây, vui lòng ngâm vịnh. Nhân lấy bốn
          ngôi chùa trên đất Quảng Ninh. Những trang du      để sang bến đò Bính đáp ô tô”, chỉ khác là đoàn đi   tượng Phật Quan Âm và đức Sơn thần, bên hữu có           Bắc, trong đó, nội dung tấm bia trên hang Đầu Gỗ được   thưởng tư nhả tri túng đăng lâm nhi tán bộ bất giác   chữ “Ngũ thể tường vân” đặt tên cho động ấy, lại làm
                                                                                                                                                                                                                               hứng hoài. Nhân dĩ ngũ thể tường vân tứ động danh
                                                             theo tuyến Mạo Khê - Dốc Đỏ - Bí Chợ, tới chùa Cầm
          ký này không chỉ phản ánh đời sống tâm linh        Thực, phải lội qua 28 con suối mới tới chùa Giải Oan.   thờ Thánh Tổ Trần Nhân Tông và trên vách đá có thơ    Hồ Văn Lang ghi lại khá chi tiết, trọn vẹn và còn nhờ cụ   thả ngẫu đắc ngũ ngôn bài luật thi thập nhị vận. Trẫm   một bài thơ ngũ ngôn, bài luật mười hai vận và một
                                                                                                             của ngài đề từ khi ngài vãng cảnh. Thơ rằng: Đứng
                                                                                                                                                                           Kiêm thảo Lê Doãn Thăng ở Huế phiên âm, dịch nghĩa ra
                                                                                                                                                                                                                                                                               bài tự sắc cho quan tỉnh Quảng Yên vâng chỉ khắc đá
          Phật giáo, cảnh quan các ngôi chùa mà còn góp      Điều thú vị là bài du ký này có giải thích rõ một số địa   thốc trên sông một đọi đèo/ Trông mình như thể dáng   chữ quốc ngữ.                                    tự văn mệnh Quảng Yên (An) tỉnh thần phụng chỉ lặc   dựng trước hang, một ghi cảnh lạ non sông, hai là nhớ
          phần hướng tới phản ánh đời sống hiện thực, hoạt   danh như mỏ than Bí Chợ của doanh nhân Bạch Thái   con mèo/ Đá xương, đất thịt, da xanh ngắt/ Cỏ vện,            Điểm đặc biệt đầu tiên trong cuốn sách này, tác giả   thạch vu cốc khẩu. Nhất dĩ chí thiên nhiên diệu xảo,   tình vui khách chủ là để về sau có khách thơ tới chơi,
                                                                                                                                                                                                                               nhất dĩ tự giao hảo quan tình, nhược phù cẩm thượng
                                                             Bưởi; vòng sườn núi đến Cửa Ngăn có ngôi đền trông
                                                                                                             hoa  vằn,  dạ  mốc  meo/  Cáo  thỏ  hơi  im,  rừng  vắng
          động du lịch, lễ hội và tình hình văn hóa, an ninh,   ra suối là nơi thờ bà Chúa Cửa Rừng “tương truyền   ngắt/  Kình  nghê  tăm  bặt,  nước  trong  veo/  Xanh  trì   Hồ Văn Lang ghi chép toàn bộ nội dung Cáo thị của Công   thiêm hoa, thượng sĩ hậu chi tao khách giả dã.  gấm thêu thêm tốt.
                                                                                                                                                                           sứ Quảng Yên lúc đó, bởi trong chính văn bia có đoạn
          xã hội vùng Đông Bắc biên cương đất nước...        là bà Nguyệt Nga công chúa, em gái ông Quận Hẻo   vũ trụ chân ngoèo vững/ Ắt hẳn nghìn thu kín chẳng          làm bài tự sắc “cho quan tỉnh Quảng Yên vâng chỉ khắc   Thanh phong thừa ngọc lãm                      Gió êm đưa bồng ngọc
                                                             Nguyễn  Hữu  Cầu”;  Suối  Tắm  phía  trước  là  “nơi  khi
                                                                                                                                                                                                                                                                                  Biển Lục dạo bè sao,
                                                                                                             nghèo” (Đuốc tuệ, 1939)... Nếu xác định đây đúng là
                                                                                                                                                                                                                                  Lục Hải độ tinh tra
                                                             đức Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tôn vào Yên   bài thơ của Trần Nhân Tông (1258-1308) thì cần bổ             đá dựng trước hang”.                                   Đáo xứ nham đầu lập,                            Buồm tới non như rước
                                                                                                                                                                              Nội dung Cáo thị ấy như sau: “Cáo thị: Quan Công sứ
               ói  đến  các  ngôi  chùa  Quảng  Ninh  trước  hết  cần   Tử tu, dừng lại ở đấy tắm”; chùa Cầm Thực: “Tương   sung bài thơ Nôm thuộc loại sớm nhất, tới nay chưa   tỉnh Quảng Yên yết thị cho mọi người đều biết: Cái hang   Hành khởi thủy bất ba                  Thuyền qua nước chẳng xa
               nhấn mạnh vị thế hệ thống chùa núi Trúc Lâm - Yên   truyền đức Giác Hoàng đến đây, chỉ uống nước suối   từng thấy nói đến, vào các bộ biệt tập thơ Trần Nhân                                                                                                       Người nghe đồn động lạ
         NTử. Khởi đầu, Kiếm Hồ Nguyễn Thế Hữu bộc lộ cảm    trừ cơm”; đường Mật Lộn: “Hỏi ra mới biết lối này đi   Tông và hợp tập thơ văn thời Trần cũng như kho tàng    tục gọi là hang “Đầu Gỗ” đẹp có tiếng ở xứ nầy; ai đi qua   Truyền ngôn hữu kỳ cốc
          xúc hân hoan và có được những trang du ký hấp dẫn, sinh   thăm thẳm, dốc ngược người lên, vì thế người trước   “kim thạch di văn” dân tộc.                       lại cũng vào xem. Tháng hai năm 1918, tức là tháng Ba   Tương huề giá tiểu a                           Dắt khách ghé thuyền vào
          động qua bài Hành trình chơi núi An Tử: “Nhân về giêng   mới đặt tên như vậy”...                      Nhìn rộng ra, còn có thể liên hệ các du ký trên với        năm Khải Định thứ ba, đức Hoàng thượng Đại Nam ra Bắc   Lý nham hành khuất khúc                        Lên đỉnh nhiều quanh quất
          hai, ngày rộng tháng dài, tôi được đi chơi An Tử, trước là   Tác giả chịu khó quan sát, ghi chép và cho biết   phóng sự Khói thuốc trên dãy núi Yên Tử của Nguyễn   tuần cùng quan Toàn quyền Sarraut đại thần đi thuyền lên   Chí cốc lộ y tà                          Đường hang lắm đột ao
          chiêm ngưỡng Phật tổ, sau là đi xem phong cảnh... Cho   thêm nhiều địa danh khác (dốc Mụ Chị, Mụ Em, làng   Tuân  in  trên  báo  Trung  Bắc  Chủ  nhật  (1940).  Bên   hang ấy chơi, xem phong cảnh. Ngài cho tên là “Ngũ thể   Biên triều song trĩ đảo                 Bên lưng hai núi giáp
                                                                                                                                                                           tường vân động” dựng một cái bia đá để tự và thơ. Trước là
          hay đâu cũng non xanh nước biếc, nhưng mà mỗi cảnh   Nam  Mẫu,  chùa  Lân,  núi  Voi  Xô,  Xếp  Ngoài,  Xếp   cạnh, việc phản ánh mặt trái chốn cửa Thiền, sự lầm   kỉ niệm hình thắng thiên nhiên tạo hóa, sau là ghi tình giao   Diện đối nhất hoành nga              Ngay mặt một gò bao
          một khác. Như nước ta chốn Hương Sơn là nơi tịnh mịch   Trong...). Qua chuyến du ngoạn ba ngày hai đêm, tác   lạc của một vài kẻ giả danh, Nguyễn Tuân vẫn đặt lòng   hiếu của hai nước. Không cứ người nào, ai vào xem thì nên   Nham gian phu tác hộ                  Cửa thời hang mở sẵn
          u thâm; Sài Sơn là nơi bán thành thị bán lâm tuyền; mà   giả xác nhận: “Núi Yên Tử vừa là chốn tổ Trúc Lâm   tin  vào  bậc  chân  tu:  “Đêm  nay  có  thêm  sư  cụ  chùa   kính trọng mấy phải, chớ có xem thường. Nay yết thị. Le   Động lý thạch vi gia
          cảnh An Tử sơn này là nơi Bồng Lai tiên cảnh và là chốn   đời Trần đã làm cho đạo Phật ở xứ ta thuở trước được   Đàm Xuyên, tận vùng đồng bằng Gia Lâm lên đây để   1-er Septembre 1918”.                               Mục hám thần hi thiểu                           Nhà có đá xây cao
          cực lạc Phật độ... Đã bốn năm nay đã ước ao đi An Tử, mà   hưng thịnh, lại vừa có phong cảnh đẹp, thực đáng kể   tôi tình cờ được hầu chuyện. Đàm Xuyên Hòa thượng                                                                                                      Mắt xem dường đất mát
          bây giờ chân được đi đến, mắt được trông thấy, thật là phỉ   là một nơi danh thắng” và đi đến quảng bá, kêu gọi,   là một bậc chân tu lầu lầu mấy môn kinh, luật, luận và   Điểm đặc biệt thứ hai của cuốn sách chính là ghi chép   Thiên nhiên cảnh trí đa             Cảnh thấy sẵn trời trao
          lòng mơ tưởng... Dòng nước trong xanh, hòn đá bạc phếch   ước mong: “Vậy dám mong rằng các cụ, các ông và   nghe đâu lại am cả quyền thuật nữa. Cái người ấy đáng   nguyên văn chữ hán, phiên âm, dịch nghĩa toàn bộ nội   Ngũ sắc thùy anh bố                          Mây kết tua năm sắc
          mà không có một người tu hiển đạo ở trong, dẫu rằng sơn   các bà trong Hội Phật giáo, cùng thiện nam tín nữ thập   kính lắm”, đồng thời phác vẽ cảm nhận trong tư cách   dung tấm bia đá của vua Khải Định tại hang Đầu Gỗ. Tính   Quần tinh hiến thể la                Sao giăng vẻ mấy màu
          thủy hữu tình, mà vẫn không có cái tinh thần ẩn hiện... Tôi   phương, mỗi năm về cuối tháng hai, hoặc sang đầu   khách du về cảnh chùa, trân trọng một khoảng trời cao   chính xác của ghi chép này đến đâu, xin dành cho các   Khinh hà phi xuất trục                  Ngời non lừng rang nhẹ
          được đi đến nơi, về đến chốn, trăng gió một bầu, cỏ hoa   tháng ba, là lúc tiết xuân mát mẻ, cố dứt chút thì giờ   xanh trên đỉnh chùa Đồng, những tháp cổ, tùng trượng   chuyên gia Hán Nôm đánh giá. Ở đây, chúng tôi xin cung   Linh lộ trích triêm sa
          trăm thức, đã thu vào trong khóe mắt, tưởng cũng nên cầm   đi Yên Tử, trước là lễ Phật, sau là thăm chùa, ngoạn   phu, trúc quân tử và sung sướng với việc “tôi quảy mấy   cấp thêm một tư liệu có tính trọn vẹn về nội dung tấm văn   Ngoại khách ngâm thinh tịch      Thấm c át giọt sương dào
          bút viết ra để góp một vài phần, gọi là cái quà đi An Tử về   cảnh và để biết cái công phu của các Tổ ngày trước tu   chục dò lan Yên Tử đem về làm quà cho bạn quen dưới   bia này, khi nó vừa mới được vua Khải Định sai khắc được   Tao đề mặc tích ma               Tiếng Vịnh người thơ vắng
          để biếu những người có lòng ước ao mà chưa rảnh đi được   hành thể nào” (Đuốc tuệ, 1935)...        đồng bằng”... Bài báo của Nguyễn Tuân thắp sáng lên           2 năm. Hơn nữa, bản dịch của cụ Lê Doãn Thăng ở Huế    Triền hiêu đô bất đáo                           Câu đề nét mực hao
          và những người ngại ngùng đường sá xa xôi không dám đi   Đặc  biệt  trong  số  các  tác  giả  viết  về  Yên  Tử  có   tình yêu thiên nhiên, niềm tin vào những giá trị tinh thần   cũng là một bản dịch có giá trị lịch sử để chúng ta tham                             Đã không bụi trần tới
          đến...” (Nam Phong tạp chí, 1926)...               Đ.N.T (ký tắt Đồ Nam Tử Nguyễn Trọng Thuật, đương   Phật giáo vùng non thiêng Yên Tử...                       khảo. Dưới đây là phần nguyên âm, dịch nghĩa của tấm bia   Vũ hóa cảnh như hà                          Chi khác cõi Tiên nào
                                                                                                                                                                           đá tại hang Đầu Gỗ do tác giả Hồ Văn Lang ghi lại, người
            Một  thời  vùng  núi  Yên  Tử  còn  thuộc  về  tỉnh  Hải   kim Thư ký Ban Khảo cứu và giảng diễn Phật học và   Ngày nay đọc lại du ký về vùng đất Phật Quảng   dịch là cụ Lê Doãn Thăng:                              Liêu chí đăng lâm nhật                          Ghi lấy ngày chơi đó
          Dương, nhà Hán học Đồ Nam Nguyễn Trọng Thuật đến   Thư ký Ban Biên tập tạp chí Đuốc tuệ) với ba mục bài   Ninh giai đoạn nửa đầu thế kỷ càng thấy sức sống,                                                             Minh mân vĩnh niệm tha.                         Gọi là nhớ cảnh tao”.
          thăm, phác thảo vị thế các chùa Cầm Thực, chùa Lân   đều in trên báo nhà. Bài thứ nhất Chùa Hồ Thiên xác   sức  hấp  dẫn  của  cảnh  quan  thiên  nhiên  Phật  vùng   Phiên âm:                                         Dịch nghĩa:
          (Lân Động), Giải Oan, Hoa Yên, Một Mái, Bảo Sát, Vân   định chùa dựng ở chỗ ngang vai núi, “lên đến tuyệt đỉnh   biên cương Đông Bắc tổ quốc… Xa gần tôi vẫn nghĩ   “Ngự chế lãm Lục hải kì quan thạch động, tứ danh    “Mùa xuân tháng ba năm Mậu Ngọ, trẫm ngự Bắc    Kiêm thảo Lê Doãn Thăng phụng dịch.
          Tiêu, Tử Tiêu, chùa Đồng, Hồ Thiên, Ngọa Vân và nhấn   thì cao cũng ngang với chùa Bảo Sát bên Yên Tử, xung   đến bộ sách sưu tập “Du ký về Quảng Ninh nửa đầu   Ngũ thể tường vân động thi tự.                      tuần cùng Toàn quyền Sarraut, từ Hải Phòng đi tàu hỏa   Nguồn: Hồ Văn Lang - Từ Nam ra Bắc. Nhà in
          mạnh vị thế tuyến đường phía Đông trong phần mở đầu   quanh chùa có nhiều cây thủy tùng to hai người ôm,   thế kỷ XX”...                                            Mậu Ngọ xuân tam nguyệt, trẫm bắc tuần dữ Toàn   tới Cửa Lục. Đi ngược lên sông Lục Đầu trải qua động   Hồ Văn xuất bản, Sa Đéc 1924, từ tr.22 đến tr.28.
                                                                                                                                                                                                                                                                                                       Hạå Long
          20 Hạå Long                                                                                                          Xuân Ất Tỵ 2025                                       Xuân Ất Tỵ 2025                                                                                                   Hạå Long        21
                                                                                                                               Xuân Ất Tỵ 2025
                                                                                                                                                                                     Xuân Ất Tỵ 2025
   15   16   17   18   19   20   21   22   23   24   25