Page 20 - Hạ Long
P. 20
Về tấm bia đá
Du ký
Du ký Về tấm bia đá
về các ngôi chùa
về các ngôi chùa của vua Khải Định
của vua Khải Định
ở Quảng Ninh
ở Quảng Ninh trong hang Đầu Gỗ
trong hang Đầu Gỗ
nửa đầu thế kỷ XX LÍ HỌC
nửa đầu thế kỷ XX
LA NGUYỄN HỮU SƠN (Viện Văn học) Một góc chùa Quỳnh Lâm (Đông Triều). Ảnh: TM
bài Danh thắng Hải Dương (Núi An Tử): “Về đàng cao mà thẳng như cán cân, lá rủ mềm mại và nhỏ lốt
đông. Phần này thường gọi là An Tử. Đường vào có mắt, coi đẹp lắm, lại có rất nhiều các thứ lan sói, nhất
ba ngả. Một ngả từ Hải Phòng đi theo cầu máng nước điểm, tố lan, phong lan, hắc lan, phượng lan, sói vàng,
vào chùa Lân; một ngả từ Tràng Bạch đi qua chùa sói trắng, vân vân” (1936)... Bài thứ hai Luận về di tích
Cầm Thực vào chùa Lân; một ngả từ huyện lỵ Đông chùa Quỳnh, tác giả bày tỏ ý nguyện cùng các nhà
Triều đi qua Bến Châu, rồi đi tắt qua đường nhỏ trong quản lý, chư tôn chức sắc Phật giáo: “Tôi mong trường
núi vào chùa Lân”, đồng thời mô tả chi tiết biểu tượng Bác Cổ nên làm cái nhà bia mà bảo tồn, lấy cái bia có
chùa Đồng: “Giữa đỉnh có một hòn đá cuội to bằng ba, ghi hình thế chùa và pho tượng đồng ngày xưa, kẻo gió
bốn cái sập, cao bằng ngực người, mặt trên phẳng. mưa làm mòn hết nét chữ. Bia ấy còn thì chùa Quỳnh
Người ta bày ba pho tượng Trúc Lâm Tam Tổ bằng Lý - Trần còn, xin các ngài lưu ý” (1938)... Cuối cùng
đá mà nhỏ độ một thước Nam và cái bình hương bằng là Bài ca vãn cảnh chùa Hồ Thiên kể rõ lai lịch bài vãn
đồng để khách lễ bái. Tượng thì trông về hướng nam... được tác giả “viết từ hồi còn thiếu niên, năm 1910”, tiếp Bìa cuốn sách “Từ Nam ra Bắc” của Hồ Văn Lang.
Sở dĩ gọi là chùa Đồng, cũng là một cái tên mới. Gần đó dẫn giải dấu ấn cổ kim, thực trạng cảnh chùa đương
đây có người cúng một cái chùa nhỏ, gọng bằng đồng thời rồi công bố toàn văn bài vãn ca dài 82 câu thơ...
như một cái nhà táng, lợp kẽm. Đem úp lên trên hòn Một năm sau, sa môn Tố Liên thay mặt Hội Phật ấm bia đá tại hang Đầu Gỗ do vua Khải Định sai
thạch bàn kia. Song gió đánh đổ, nay còn bộ gọng giáo Bắc Kỳ đã đến thăm và tham dự hội chùa Mang khắc năm 1918 đã được Ban Quản lý vịnh Hạ Long
để ở dưới chân một bên thạch bàn. Hòn thạch bàn Nhai thuộc huyện Móng Cái, “một nơi cách nước Tàu Tphối hợp Viện Nghiên cứu Hán Nôm và Bảo tàng
này chắc là có sẵn ở đó, vì có nhân lực thì cũng là chỉ có một cái cầu dài độ vài trăm bước”, đặt dưới sự Lịch sử Việt Nam phục chế năm 2011 bằng việc khảo
chỉ kê lại cho tề chỉnh mà thôi... Ở đấy đã khỏi lớp quản lĩnh của quan Tri châu Ngô Kiều Hợp. Trong bài cứu, dịch lại văn bia, chạm khắc lại những chữ bị mất, mờ,
không khí nùng hậu mà vào lớp không khí hy bạc nên viết Tấm đạo tâm của quan Tri châu Mang Nhai, tác đảm bảo tính thẩm mỹ và giữ nguyên trạng tấm bia quý
cây to không mọc được, điểu thú cũng không, chỉ có giả du ký - nhà sư kết nối công cuộc hoằng dương giá này. Xem tài liệu cũ, thấy năm 1920, Hồ Văn Lang,
những cây trúc nhỏ mà lá to và những loài ong kiến. Ở Phật giáo gắn với cội nguồn “chân lý nhân quả”, “cái lúc đó là Tổng lý Thời báo tại Sài Gòn đã có chuyến du Tác giả Hồ Văn Lang (ngoài cùng bên phải) chụp ảnh cùng đoàn Hội thương mãi kĩ nghệ An Nam ra Bắc
đây thường bị mây bọc, khi mây bọc thì chỗ đứng vẫn pháp lực dắt rủ tiến hóa mạnh mẽ về đường tâm đức”, hành ra Bắc tham dự Hội Đấu xảo, có lên thăm hang Đầu năm 1920.
trông rõ, nhưng có loáng thoáng những hạt mưa nhỏ “nghiệp báo tày trời”, khuyến cáo xây dựng nền Phật Gỗ và ghi chép toàn bộ nội dung tấm bia đá này trong
rơi xiên vào. Còn trông ra chung quanh thì mờ mịt cả. học dân tộc, thực hành tu nhân tích đức, bài trừ tên cuốn sách có tựa đề “Từ Nam ra Bắc” do nhà in Hồ Văn quyền Sa Lộ công, tự Hải Phòng thừa hỏa luân đá cảnh lạ, nhân đi thuyền nhỏ vào bờ, cầm tay ông
Tháp Huệ Quang ở Yên Tử - nơi đặt tượng Trần Nhân Tông Những hạt mưa nhỏ ấy là mây đó, vì nhỏ không đủ sức nạn mê tín dị đoan (1939)... xuất bản năm 1924. thuyền, lãm Lục Hải tố thượng Lục Đầu giang, kinh ấy (tức Sarraut) đều lên cửa động. Nhưng thấy hang
là bảo vật Quốc gia. Ảnh: TM rơi xuống đất, lại nhiều lắm, nên ở xa trông như một Cũng ngay trong năm này, ký giả Cống Chân Theo lời nói đầu của cuốn sách, tác giả Hồ Văn Lang quá kì quan thạch động, nhân hạ tiểu a để ngạn, huề mở rộng, đá sáng lập lòa, đá dựng xung quanh như
đám khói, rồi bị gió thổi đưa đi, khi nào gặp khí lạnh đương kim Thư ký Hội Phật giáo Hải Dương dẫn ban được Chính phủ Nam Kì và Hội thương mãi kĩ nghệ An thủ đồng đăng động khẩu. Đản kiến nham khiếu bài sao giăng, như gấm trải, mù bay nóc giọt, lũ nọ đoàn
hơn mới tụ vào nhau thành hạt to mà rơi xuống thành Kịch sang huyện Đông Triều thăm khắp miền Đồn Nam phái ra để “quan sát Hội thương mãi Hà thành”. Vì khai, thạch quang ẩn ước, yết quần tinh chi la liệt, bố kia. Khi ấy đoanh mắt xa xem, nơi thời xanh xanh, biếc
Tỉnh Quảng Ninh có nhiều danh lam thắng cảnh, mưa” (Nam Phong tạp chí, 1931)... Sơn, hang Son, động Hàm Long, bến Đụn, núi Mèo, thế, mục đích của cuốn sách là tác giả “thuật lại những ngũ sắc chi tân phân, trích lộ phi hà, đoàn đoàn thể biếc, nơi thời đen đen, vàng càng, nơi mở màu son,
Bốn năm sau, trong một bài viết có nhan đề tương
trải khắp vùng ven biển đến non cao và dọc dài tự, Vũ Ngọc Lâm với Hành trình đi núi Yên Tử kể về Cổ Phượng, Con Chuột, Đống Thóc, Long Mã và viết điều đã tận mắt, tai nghe và thấy, nghe làm sao thì thuật kiết. Nhất thời, cử mục túng quan, hoặc trình thương nơi giăng sắc trắng kể đà không xiết. Quan cảnh xem
túy, hoặc thổ huyền hoàng, duệ bạch lưu đơn bất khả
miền biên giới. Vào giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX chuyến du ngoạn gồm 11 người, “khởi hành ở Kiến An thành bài Một cuộc du lịch. Ký giả dẫn giải cảnh quan: lại như vậy”. Cũng chính vì thế mà cuốn sách là một tài danh trạng. Huyễn nhiên xuất một tường vân, thời như một ánh tường vân thường thường quanh xây trên
liệu ghi chép khá kĩ lưỡng, cẩn thận và chi tiết về những
“Núi Mèo trông hình như con Mèo nằm phục, đằng
mặt động; dạo chơ động đá nhiều cảnh tốt xinh, trải
đã xuất hiện nhiều tác phẩm du ký viết về các 3 giờ sáng ngày mùng 5 tháng năm Tây năm 1935, trước có hang trông xuống sông, trong hang có thờ điều tác giả mắt thấy tai nghe trong chuyến hành trình ra thời bàng nhiễu hồ kì thượng, thâm u tịch dĩ ngu tình bước đường mây, vui lòng ngâm vịnh. Nhân lấy bốn
ngôi chùa trên đất Quảng Ninh. Những trang du để sang bến đò Bính đáp ô tô”, chỉ khác là đoàn đi tượng Phật Quan Âm và đức Sơn thần, bên hữu có Bắc, trong đó, nội dung tấm bia trên hang Đầu Gỗ được thưởng tư nhả tri túng đăng lâm nhi tán bộ bất giác chữ “Ngũ thể tường vân” đặt tên cho động ấy, lại làm
hứng hoài. Nhân dĩ ngũ thể tường vân tứ động danh
theo tuyến Mạo Khê - Dốc Đỏ - Bí Chợ, tới chùa Cầm
ký này không chỉ phản ánh đời sống tâm linh Thực, phải lội qua 28 con suối mới tới chùa Giải Oan. thờ Thánh Tổ Trần Nhân Tông và trên vách đá có thơ Hồ Văn Lang ghi lại khá chi tiết, trọn vẹn và còn nhờ cụ thả ngẫu đắc ngũ ngôn bài luật thi thập nhị vận. Trẫm một bài thơ ngũ ngôn, bài luật mười hai vận và một
của ngài đề từ khi ngài vãng cảnh. Thơ rằng: Đứng
Kiêm thảo Lê Doãn Thăng ở Huế phiên âm, dịch nghĩa ra
bài tự sắc cho quan tỉnh Quảng Yên vâng chỉ khắc đá
Phật giáo, cảnh quan các ngôi chùa mà còn góp Điều thú vị là bài du ký này có giải thích rõ một số địa thốc trên sông một đọi đèo/ Trông mình như thể dáng chữ quốc ngữ. tự văn mệnh Quảng Yên (An) tỉnh thần phụng chỉ lặc dựng trước hang, một ghi cảnh lạ non sông, hai là nhớ
phần hướng tới phản ánh đời sống hiện thực, hoạt danh như mỏ than Bí Chợ của doanh nhân Bạch Thái con mèo/ Đá xương, đất thịt, da xanh ngắt/ Cỏ vện, Điểm đặc biệt đầu tiên trong cuốn sách này, tác giả thạch vu cốc khẩu. Nhất dĩ chí thiên nhiên diệu xảo, tình vui khách chủ là để về sau có khách thơ tới chơi,
nhất dĩ tự giao hảo quan tình, nhược phù cẩm thượng
Bưởi; vòng sườn núi đến Cửa Ngăn có ngôi đền trông
hoa vằn, dạ mốc meo/ Cáo thỏ hơi im, rừng vắng
động du lịch, lễ hội và tình hình văn hóa, an ninh, ra suối là nơi thờ bà Chúa Cửa Rừng “tương truyền ngắt/ Kình nghê tăm bặt, nước trong veo/ Xanh trì Hồ Văn Lang ghi chép toàn bộ nội dung Cáo thị của Công thiêm hoa, thượng sĩ hậu chi tao khách giả dã. gấm thêu thêm tốt.
sứ Quảng Yên lúc đó, bởi trong chính văn bia có đoạn
xã hội vùng Đông Bắc biên cương đất nước... là bà Nguyệt Nga công chúa, em gái ông Quận Hẻo vũ trụ chân ngoèo vững/ Ắt hẳn nghìn thu kín chẳng làm bài tự sắc “cho quan tỉnh Quảng Yên vâng chỉ khắc Thanh phong thừa ngọc lãm Gió êm đưa bồng ngọc
Nguyễn Hữu Cầu”; Suối Tắm phía trước là “nơi khi
Biển Lục dạo bè sao,
nghèo” (Đuốc tuệ, 1939)... Nếu xác định đây đúng là
Lục Hải độ tinh tra
đức Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tôn vào Yên bài thơ của Trần Nhân Tông (1258-1308) thì cần bổ đá dựng trước hang”. Đáo xứ nham đầu lập, Buồm tới non như rước
Nội dung Cáo thị ấy như sau: “Cáo thị: Quan Công sứ
ói đến các ngôi chùa Quảng Ninh trước hết cần Tử tu, dừng lại ở đấy tắm”; chùa Cầm Thực: “Tương sung bài thơ Nôm thuộc loại sớm nhất, tới nay chưa tỉnh Quảng Yên yết thị cho mọi người đều biết: Cái hang Hành khởi thủy bất ba Thuyền qua nước chẳng xa
nhấn mạnh vị thế hệ thống chùa núi Trúc Lâm - Yên truyền đức Giác Hoàng đến đây, chỉ uống nước suối từng thấy nói đến, vào các bộ biệt tập thơ Trần Nhân Người nghe đồn động lạ
NTử. Khởi đầu, Kiếm Hồ Nguyễn Thế Hữu bộc lộ cảm trừ cơm”; đường Mật Lộn: “Hỏi ra mới biết lối này đi Tông và hợp tập thơ văn thời Trần cũng như kho tàng tục gọi là hang “Đầu Gỗ” đẹp có tiếng ở xứ nầy; ai đi qua Truyền ngôn hữu kỳ cốc
xúc hân hoan và có được những trang du ký hấp dẫn, sinh thăm thẳm, dốc ngược người lên, vì thế người trước “kim thạch di văn” dân tộc. lại cũng vào xem. Tháng hai năm 1918, tức là tháng Ba Tương huề giá tiểu a Dắt khách ghé thuyền vào
động qua bài Hành trình chơi núi An Tử: “Nhân về giêng mới đặt tên như vậy”... Nhìn rộng ra, còn có thể liên hệ các du ký trên với năm Khải Định thứ ba, đức Hoàng thượng Đại Nam ra Bắc Lý nham hành khuất khúc Lên đỉnh nhiều quanh quất
hai, ngày rộng tháng dài, tôi được đi chơi An Tử, trước là Tác giả chịu khó quan sát, ghi chép và cho biết phóng sự Khói thuốc trên dãy núi Yên Tử của Nguyễn tuần cùng quan Toàn quyền Sarraut đại thần đi thuyền lên Chí cốc lộ y tà Đường hang lắm đột ao
chiêm ngưỡng Phật tổ, sau là đi xem phong cảnh... Cho thêm nhiều địa danh khác (dốc Mụ Chị, Mụ Em, làng Tuân in trên báo Trung Bắc Chủ nhật (1940). Bên hang ấy chơi, xem phong cảnh. Ngài cho tên là “Ngũ thể Biên triều song trĩ đảo Bên lưng hai núi giáp
tường vân động” dựng một cái bia đá để tự và thơ. Trước là
hay đâu cũng non xanh nước biếc, nhưng mà mỗi cảnh Nam Mẫu, chùa Lân, núi Voi Xô, Xếp Ngoài, Xếp cạnh, việc phản ánh mặt trái chốn cửa Thiền, sự lầm kỉ niệm hình thắng thiên nhiên tạo hóa, sau là ghi tình giao Diện đối nhất hoành nga Ngay mặt một gò bao
một khác. Như nước ta chốn Hương Sơn là nơi tịnh mịch Trong...). Qua chuyến du ngoạn ba ngày hai đêm, tác lạc của một vài kẻ giả danh, Nguyễn Tuân vẫn đặt lòng hiếu của hai nước. Không cứ người nào, ai vào xem thì nên Nham gian phu tác hộ Cửa thời hang mở sẵn
u thâm; Sài Sơn là nơi bán thành thị bán lâm tuyền; mà giả xác nhận: “Núi Yên Tử vừa là chốn tổ Trúc Lâm tin vào bậc chân tu: “Đêm nay có thêm sư cụ chùa kính trọng mấy phải, chớ có xem thường. Nay yết thị. Le Động lý thạch vi gia
cảnh An Tử sơn này là nơi Bồng Lai tiên cảnh và là chốn đời Trần đã làm cho đạo Phật ở xứ ta thuở trước được Đàm Xuyên, tận vùng đồng bằng Gia Lâm lên đây để 1-er Septembre 1918”. Mục hám thần hi thiểu Nhà có đá xây cao
cực lạc Phật độ... Đã bốn năm nay đã ước ao đi An Tử, mà hưng thịnh, lại vừa có phong cảnh đẹp, thực đáng kể tôi tình cờ được hầu chuyện. Đàm Xuyên Hòa thượng Mắt xem dường đất mát
bây giờ chân được đi đến, mắt được trông thấy, thật là phỉ là một nơi danh thắng” và đi đến quảng bá, kêu gọi, là một bậc chân tu lầu lầu mấy môn kinh, luật, luận và Điểm đặc biệt thứ hai của cuốn sách chính là ghi chép Thiên nhiên cảnh trí đa Cảnh thấy sẵn trời trao
lòng mơ tưởng... Dòng nước trong xanh, hòn đá bạc phếch ước mong: “Vậy dám mong rằng các cụ, các ông và nghe đâu lại am cả quyền thuật nữa. Cái người ấy đáng nguyên văn chữ hán, phiên âm, dịch nghĩa toàn bộ nội Ngũ sắc thùy anh bố Mây kết tua năm sắc
mà không có một người tu hiển đạo ở trong, dẫu rằng sơn các bà trong Hội Phật giáo, cùng thiện nam tín nữ thập kính lắm”, đồng thời phác vẽ cảm nhận trong tư cách dung tấm bia đá của vua Khải Định tại hang Đầu Gỗ. Tính Quần tinh hiến thể la Sao giăng vẻ mấy màu
thủy hữu tình, mà vẫn không có cái tinh thần ẩn hiện... Tôi phương, mỗi năm về cuối tháng hai, hoặc sang đầu khách du về cảnh chùa, trân trọng một khoảng trời cao chính xác của ghi chép này đến đâu, xin dành cho các Khinh hà phi xuất trục Ngời non lừng rang nhẹ
được đi đến nơi, về đến chốn, trăng gió một bầu, cỏ hoa tháng ba, là lúc tiết xuân mát mẻ, cố dứt chút thì giờ xanh trên đỉnh chùa Đồng, những tháp cổ, tùng trượng chuyên gia Hán Nôm đánh giá. Ở đây, chúng tôi xin cung Linh lộ trích triêm sa
trăm thức, đã thu vào trong khóe mắt, tưởng cũng nên cầm đi Yên Tử, trước là lễ Phật, sau là thăm chùa, ngoạn phu, trúc quân tử và sung sướng với việc “tôi quảy mấy cấp thêm một tư liệu có tính trọn vẹn về nội dung tấm văn Ngoại khách ngâm thinh tịch Thấm c át giọt sương dào
bút viết ra để góp một vài phần, gọi là cái quà đi An Tử về cảnh và để biết cái công phu của các Tổ ngày trước tu chục dò lan Yên Tử đem về làm quà cho bạn quen dưới bia này, khi nó vừa mới được vua Khải Định sai khắc được Tao đề mặc tích ma Tiếng Vịnh người thơ vắng
để biếu những người có lòng ước ao mà chưa rảnh đi được hành thể nào” (Đuốc tuệ, 1935)... đồng bằng”... Bài báo của Nguyễn Tuân thắp sáng lên 2 năm. Hơn nữa, bản dịch của cụ Lê Doãn Thăng ở Huế Triền hiêu đô bất đáo Câu đề nét mực hao
và những người ngại ngùng đường sá xa xôi không dám đi Đặc biệt trong số các tác giả viết về Yên Tử có tình yêu thiên nhiên, niềm tin vào những giá trị tinh thần cũng là một bản dịch có giá trị lịch sử để chúng ta tham Đã không bụi trần tới
đến...” (Nam Phong tạp chí, 1926)... Đ.N.T (ký tắt Đồ Nam Tử Nguyễn Trọng Thuật, đương Phật giáo vùng non thiêng Yên Tử... khảo. Dưới đây là phần nguyên âm, dịch nghĩa của tấm bia Vũ hóa cảnh như hà Chi khác cõi Tiên nào
đá tại hang Đầu Gỗ do tác giả Hồ Văn Lang ghi lại, người
Một thời vùng núi Yên Tử còn thuộc về tỉnh Hải kim Thư ký Ban Khảo cứu và giảng diễn Phật học và Ngày nay đọc lại du ký về vùng đất Phật Quảng dịch là cụ Lê Doãn Thăng: Liêu chí đăng lâm nhật Ghi lấy ngày chơi đó
Dương, nhà Hán học Đồ Nam Nguyễn Trọng Thuật đến Thư ký Ban Biên tập tạp chí Đuốc tuệ) với ba mục bài Ninh giai đoạn nửa đầu thế kỷ càng thấy sức sống, Minh mân vĩnh niệm tha. Gọi là nhớ cảnh tao”.
thăm, phác thảo vị thế các chùa Cầm Thực, chùa Lân đều in trên báo nhà. Bài thứ nhất Chùa Hồ Thiên xác sức hấp dẫn của cảnh quan thiên nhiên Phật vùng Phiên âm: Dịch nghĩa:
(Lân Động), Giải Oan, Hoa Yên, Một Mái, Bảo Sát, Vân định chùa dựng ở chỗ ngang vai núi, “lên đến tuyệt đỉnh biên cương Đông Bắc tổ quốc… Xa gần tôi vẫn nghĩ “Ngự chế lãm Lục hải kì quan thạch động, tứ danh “Mùa xuân tháng ba năm Mậu Ngọ, trẫm ngự Bắc Kiêm thảo Lê Doãn Thăng phụng dịch.
Tiêu, Tử Tiêu, chùa Đồng, Hồ Thiên, Ngọa Vân và nhấn thì cao cũng ngang với chùa Bảo Sát bên Yên Tử, xung đến bộ sách sưu tập “Du ký về Quảng Ninh nửa đầu Ngũ thể tường vân động thi tự. tuần cùng Toàn quyền Sarraut, từ Hải Phòng đi tàu hỏa Nguồn: Hồ Văn Lang - Từ Nam ra Bắc. Nhà in
mạnh vị thế tuyến đường phía Đông trong phần mở đầu quanh chùa có nhiều cây thủy tùng to hai người ôm, thế kỷ XX”... Mậu Ngọ xuân tam nguyệt, trẫm bắc tuần dữ Toàn tới Cửa Lục. Đi ngược lên sông Lục Đầu trải qua động Hồ Văn xuất bản, Sa Đéc 1924, từ tr.22 đến tr.28.
Hạå Long
20 Hạå Long Xuân Ất Tỵ 2025 Xuân Ất Tỵ 2025 Hạå Long 21
Xuân Ất Tỵ 2025
Xuân Ất Tỵ 2025