Page 13 - Báo Lâm Đồng - Số Tất Niên
P. 13
TẤT NIÊN 13
Ngày xuân đi tìm huyền thoại Thác Voi
TRẦN TRỌNG VĂN Bằng mô-típ quen thuộc trong sáng tác những truyền thuyết và huyền thoại, các tác giả thường phủ phục dưới chân nàng đã ngấm
dựa vào những chuyện cổ tích của các dân tộc trong vùng để phác thảo nên tác phẩm của mình. sâu tiếng hát, ngấm nỗi khổ đau
hà báo Uông Thái Biểu, của người tình nữ đã rùng mình
Trưởng Văn phòng đại hóa đá để trở thành chứng tích
diện Báo Nhân dân ở muôn đời cho huyền thoại về mối
NTây Nguyên đã từng viết tình thủy chung.
trong “Thác Voi huyền thoại về lời Chàng K’Yar và nàng Ka Yung
ca và nước mắt”, cho rằng: “Ngày đôi trai tài, gái sắc với mối tình
xưa lâu lắm rồi dưới chân dãy Núi huyền thoại đã bay vào bầu trời cổ
Voi, bên dòng Cam Ly Hạ là nơi tích, đã hóa thân vào điệu Doslong,
sinh sống của buôn Nam Ban. lời hát Yâlyau, nhưng nơi hò hẹn
Người K’Ho Nam Ban bao đời nay của họ ngày xưa thì mãi mãi vẫn
sống yên bình bên dòng suối của xứ còn. Dòng Thác Voi cuối dòng Cam
sở mình. Con trai vào rừng sâu săn Ly vẫn ầm ào tung cầu vồng bảy
thú, con gái chuyên cần dệt vải và sắc, tung màn bụi bạc lên đàn voi
hái lượm. Những đêm trăng sáng đã phủ phục vĩnh hằng. Thác Voi
họ quây quần bên chóe rượu cần, hôm nay vẫn còn giữ nguyên những
say sưa trong âm thanh của Ching nét hoang sơ ngự trị bên thị trấn
Droòng, của khèn M’Buốt. Nam Ban như một lời mời gọi bước
Chàng K’Yar và nàng Ka Yung chân và tâm hồn du khách, mời gọi
là đôi trai tài, gái sắc của buôn Nam những ai muốn tìm về thiên nhiên
Ban. Bao mùa rẫy đi qua, đêm đêm hùng vĩ và cội nguồn của lời ca -
đôi trai gái vẫn hẹn hò cùng nhau nước mắt của nàng Ka Yung.”
bên suối. Núi Voi sừng sững cuối Rồi một ngày, tôi đọc thêm một
trời xa như chứng kiến lời hẹn thề huyền thoại mới về Thác Voi do
muôn thuở của tình yêu. Khi ánh một nhà báo trẻ - Nguyễn Thị
trăng đã treo đầu ngọn bằng lăng, Thác Voi - ảnh chụp trong những năm 1980. Du khách tham quan Thác Voi - Nam Ban - Lâm Hà. Tuyết Dân, từng là cộng tác viên
chàng K’Yar cong người cất lên của Phòng Biên tập văn nghệ của
tiếng nhạc khèn bầu. Sáu ống nứa tiếng hót véo von hòa cùng lời ca qua, buôn làng đã bình yên vậy mà chim rừng dáo dác, tiếng voi gầm Đài Phát thanh - Truyền hình Lâm
rung âm thanh réo rắt trôi theo của họ. Những đàn voi rùng rùng chàng vẫn đi, đi mãi không về! rú thác loạn cùng chia sẻ nỗi niềm Đồng, kể lại: “Thác Voi cao hơn 30
dòng nước, trôi trong ánh trăng, bước xuống chân núi nằm phủ Nàng Ka Yung thủy chung chờ thương cảm với người tình nữ. m nằm trên dòng suối Cam Ly, dưới
hòa vào gió núi. Nàng Ka Yung phục bên dòng Cam Ly, rung động đợi, mỏi mòn trong nước mắt. Cho đến một đêm khuya, trong chân là những khối đá huyền vũ bị
cất tiếng hòa nhịp theo lòng. Tiếng cùng tiếng hát Ka Yung và tiếng Nhớ người tình xưa khuất bóng, tiếng hát khổ đau của nàng Ka bào mòn theo năm tháng. Các già
hát, tiếng khèn đồng điệu với tiếng khèn K’Yay. trong một đêm trăng, nàng lại một Yung đã rung thành tiếng khóc, làng K'Ho cư trú lâu đời tại miền
lòng hòa quyện vào nhau hòa trong Cho đến một ngày kia, một mình tìm đến nơi hò hẹn ngày dòng Cam Ly bỗng nhiên rùng đất này kể rằng: Ngày xưa, vị tù
suối trăng. Âm thanh và lời ca như Mơ-toa khét tiếng hung ác dẫn đạo xưa. Trăng mông lung soi bóng mình gãy khúc. Đất đá một vùng trưởng của vùng núi Jơi Biêng có
muốn nói rằng: Dù bao mùa rẫy đi quân của hắn lên xâm chiếm cao Ka Yung lẻ loi trên mặt nước. Núi sụt lở, dòng nước đổ gầm gào cuốn cô con gái rất đẹp. Mỗi khi nàng cất
qua, dù cho đá lở đất bồi, tình yêu nguyên xa xôi. Làng buôn ly tán. Voi lừng lững lặng lẽ cuối trời xa. trôi ào ạt. Trong đêm khuya chỉ có giọng ca thì lá rừng thôi xào xạc,
của họ vẫn son sắt thủy chung như K’Yar và Ka Yung chỉ kịp gặp nhau Nàng cất lên tiếng hát, tiếng hát cô ngọn Núi Voi chứng kiến. Sáng chim muông cũng ngừng tiếng lắng
dòng Cam Ly mềm mại trôi bên bên suối, hẹn ngày tái ngộ, lại cất liêu vắng tiếng khèn bầu. Những ra, dân làng không tìm thấy Ka nghe. Nàng có người yêu là con trai
dãy Núi Voi sừng sững muôn đời. tiếng hát, tiếng khèn đẹp dòng Cam đàn chim lại tìm về nghe tiếng Yung nhưng tiếng hát tình ca đã của vị tù trưởng làng bên. Chàng
Chim chóc từ muôn cánh rừng Ly. Chàng K’Yar dẫn trai tráng hát của nàng, những đàn voi phủ hòa trong nước mắt của nàng vẫn được dân làng yêu mến, quý trọng
bay về quây quần nghe tiếng hát, đi đuổi kẻ thù giữ lấy làng buôn. phục dưới chân nàng. Lời ca u uất giữ lại trong cơn gào thét của dòng không chỉ bởi vóc dáng vạm vỡ,...
tiếng khèn của đôi trai gái, cất Bao mùa rẫy qua, bao mùa trăng khổ đau của nàng hòa trong tiếng Cam Ly gãy khúc. Những đàn voi XEM TIẾP TRANG 19
Đi tìm điệu ơ mờl lơi bên dòng Đạ Rơyàm
ĐẶNG TRỌNG HỘ bận hái rau bèo ngoài ruộng/ Mẹ Đâu rồi khúc hát
bận hái rau má ngoài ruộng/ Mẹ ơ mờl lơi?
Ám ảnh giai điệu bận đi tìm củ mpàr ngoài ruộng/ Mấy năm gần đây, tôi vẫn đi về
ơ mờl lơi Nấu chảy thành mỡ béo cho con/ với đồng bào K'Ho bên triền núi
Gần 30 năm trước, khi xuôi Đựng vào tô nhỏ cho con". Đặc Brah Yàng với niềm khao khát
ngược các buôn làng dưới chân biệt, qua lời ru, người mẹ K'Ho được nghe trong đêm vắng Kala,
núi Brah Yàng, tôi cứ nghe đứt muốn truyền cho con lòng can Krọt giai điệu ơ mờl lơi, ơ kòn lơi
nối đâu đó giai điệu chậm buồn đảm: "Con sẽ đi trên trăm dốc đá của một người mẹ K'Ho nào đó
ơ mờl lơi, ơ kòn lơi được cất lên đừng sợ/ Con sẽ đi trên trăm đồi như mấy mươi năm trước. Đêm
bởi những người mẹ K'Ho nào đó. đá đừng sợ/ Khi nước trong xúc cá Bảo Thuận rực sáng. Đêm Bảo
Tôi không hiểu những người mẹ đừng sợ con ơi...". Thuận huyên náo bởi những dàn
đó hát gì nhưng tiếng hát cơ hồ Những lời ca mộc mạc về nội karaoke. Tất nhiên không còn nghe
như níu giữ, như buông lơi, như dung nhưng êm đềm về giai điệu giai điệu ơ mờl lơi, ơ kòn lơi. Tôi
mềm mại tỏa ra tận cánh đồng đã ôm trọn bao kiếp người tụ cư đem mớ lý luận folklore để cắt
Brus trong đêm vắng Kala, Krọt. Tác giả (áo trắng, bìa trái) trong một lần đi điền dã ở vùng đồng bào DTTS. dưới chân núi Brah Yàng. Những nghĩa sự “ra đi” của những khúc
Tiếng hát không vang, không vút bài ca ấy gắn với cây cỏ, gắn hát ru bên dòng Đạ Rơyàm. Chị Ka
cao như lời ca xứ Tây Bắc nhưng văn Raxun Gamzatôp khi ông đã Mẹ bế con với tấm ồi gơjùng với núi rừng, tãi ra với dòng Đạ Đes - giáo viên Trường Tiểu học
đằm thắm, dịu ngọt như dòng viết rất hay về “cha và mẹ, lửa và Mẹ nuôi con bằng cơm trong pơrlơ Rơyàm, gắn với bao nỗi buồn vui, Bảo Thuận cho biết: Không phải
nước Đạ Rơyồng, Đạ Rơyàm vẫn nước” trong tác phẩm Đaghextan Ơ kòn lơi… khao khát của đồng bào K'Ho để vậy, cái chính là những người mẹ
miên man chảy từ ngàn đời nay của tôi. Ông cứ nhắc đi, nhắc lại Đó là giai điệu của khúc hát hình thành nên tâm hồn và cốt trẻ bây giờ không biết hát, không ai
trên cao nguyên miền thượng. Trở hình ảnh người mẹ: Gùi nước, nuôi con của người K'Ho. Có khi cách của một dân tộc Tây Nguyên. dạy cho họ hát. Đây chính là vấn đề
về phố thị, tôi mang nỗi ám ảnh nhóm bếp, đưa nôi và hát ru. Gùi họ gọi là khúc hát “mã kòn”. Lần Khúc hát ru của bao bà mẹ K'Ho trao truyền, vấn đề gìn giữ không
đó giãi bày với học trò Ka Thúy nước, nhóm bếp, đưa nôi và hát ru. theo mấy tầng của khúc hát ấy là vô danh là sợi dây kết nối bao thế gian văn hóa và tạo dựng hoàn
- sinh viên Trường Cao đẳng Sư Thì ra tính phổ quát trong hành vi cả một quan niệm nhân sinh: Già hệ, là thanh âm đằm thắm kết tụ cảnh sinh hoạt để hát ru được sống
phạm Đà Lạt - một người con của yêu thương của những người mẹ đầu mà không biết hát ru, già đầu người K'Ho cho dù họ đang sống mãi trong đời sống xã hội của dân
xứ Brah Yàng thì em cho biết đó nào trên thế gian này là hát ru con. mà không biết kể chuyện xưa, nơi chân trời góc biển nào. Như tộc K'Ho ở tỉnh Lâm Đồng.
chính là điệu đơscrih pơnđiang thần phạt. Con ơi muốn ăn gà thì thế, khúc hát ơ mờl lơi, ơ kòn lơi Không thể nào một dân tộc đã
kòn (điệu hát ru con của người Muôn năm khúc hát đặt bẫy, muốn khỏe người thì lấy không chỉ là nguồn dưỡng dục gửi tình yêu thương vào giai điệu
K'Ho). Em nói về nỗi nhớ mẹ, nhớ “mã kòn” vợ, muốn truyền đời sau thì phải tinh thần cho những đứa trẻ mà ơ mờl lơi, ơ kòn lơi lại không
bếp lửa, em nhớ tấm ùi gơjùng bạc Những người mẹ K'Ho nào đã biết ru con. Cũng như người mẹ còn là chỉ dấu giá trị văn hóa, bản khao khát cho những khúc hát
màu thấm mồ hôi của mẹ và điệu vừa cõng con vừa cất lên tiếng hát: bao dân tộc khác, người mẹ K'Ho sắc văn hóa của dân tộc K'Ho ấy tiếp tục là mạch nguồn yêu
hát ơ kòn lơi thân thuộc của buôn Ơ mờl lơi hứa cho con ăn ngon qua khúc trong bức tranh chung của văn hóa thương và chỉ dấu văn hóa bên
làng. Bất giác, tôi nhớ đến nhà Mẹ cõng con với tấm ồi gơjùng hát: "Đừng khóc nữa con ơi/ Mẹ Việt Nam. dòng Đạ Rơyàm.