Page 66 - Báo Thái Bình - Số Tết Âm Lịch
P. 66
64
Xuân Ất Tỵ
kỹ thuật thôi xao tinh túy gia truyền thì không thể làm
được. Như trà mạn sen Đầm Trị Tây Hồ, thành phần
ĐẤT VIỆT, chính là Bạch trà shan tuyết cổ thụ Tây Côn Lĩnh (Hà
Giang). Để chế biến được thành thương phẩm cho loại
chè này phải mất hàng năm, kể từ khâu đầu tiên chọn
chè ở vùng đất nào, đến tuổi cây chè, rồi lúc hái chè
phải vào buổi sáng sớm khi mặt trời chưa tỏa khí nóng.
Lúc trời mưa, hôm sương giá không được hái. Chè cho
TRÀ VIỆT, chất lượng ngon nhất là búp lá tơ non màu nõn trắng.
Thêm nữa lá mọc phía cành bên Đông cây chất chè
thơm ngon hơn lá búp mọc phía Tây cây. Một cây chè
lâu niên tán rộng cũng chỉ chọn được rất ít búp lá tơ
nõn loại này. Mới thấy để có được vài ki-lô-gam chè
tươi chất lượng đã hiếm, sau đó xao cho khô quắt lại
và cứ 1kg trà khô cần tới 1.200 - 1.300 bông hoa sen
đem ủ hương trong 3 năm. Khi này mới hoàn thành 1kg
TÌNH VIỆT giới tại Pháp).
thượng phẩm trà hương (trà này đạt giải ấn tượng thế
Cũng ở vùng núi Tây Côn Lĩnh còn có một loại chè
ngon mang dấu tích lịch sử đặc biệt, là bạch trà chốt
đỉnh 2000 shan tuyết cổ thụ, hay còn gọi bạch trà chốt
tiền Thanh Minh (đạt giải vàng thế giới cuộc thi Trà quốc
tế (AVPA). Sản phẩm đặc sắc thứ ba là trà Olong lão từ
ĐỖ TRỌNG KHƠI cao nguyên Mộc Châu, Sơn La (đạt giải vàng cuộc thi
Trà quốc tế Paris năm 2019 tại Cộng hòa Pháp).
Thành phố Thái Bình
Tới đây có thể đặt câu hỏi: Người Việt sử dụng trà
làm nước uống đã tự ngàn năm nhưng có đặt việc này
thành ra một cái đạo - trà đạo không? Câu trả lời chắc
chắn là khi đã tạo dựng cả một công phu tuyệt kỹ xao
ướp để có được danh phẩm 3 loại trà kể trên đồng nghĩa
nó đã đạt tới cái đạo của trà rồi.
Có câu “Có thực mới vực được đạo”, quan niệm đó
đã đi vào quy cách dụng trà lấy loại, lượng, vị hương trà
làm đầu, nguồn nước là thứ hai. Mỗi sớm chiều người
Việt ra vườn nhà hái một nắm chè cho vào chiếc ấm hay
ần đây, việc thưởng trà, thiền trà được đại chúng Nghệ thuật trà Việt Nam thì sao? xoong, đong mấy gáo nước mưa rồi đặt ấm lên bếp, cời
đặc biệt quan tâm không chỉ ở diện rộng mà ở củi nấu, gọi là nước chè tươi. Có hơn thì thêm củ khoai
Gcả chốn phú quý phong lưu bậc nhất. Việc này Người Việt tìm ra cây chè và lấy làm đồ uống tự xửa lang luộc, bơ lạc luộc, cái bắp ngô nướng, rồi ới gọi bạn
có liên quan đến hai câu chuyện thưởng trà, là chuyện xưa. Nương theo văn sử thấy ghi thời vua Lý Nhân Tông láng giềng sang uống nước, điểm tâm. Mùa đông quây
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thân mật mời Tổng Bí (1072 - 1127), ngài Viên Chiếu thiền sư, con của anh trai quần quanh chiếc ổ rơm, hè trải chiếc chiếu cói trên nền
thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình dự tiệc trà bà Linh Cảm Thái hậu (vợ vua Lý Nhân Tông), có hai nhà đất nện. Thanh tịnh, ấm cúng mà không kém phần
chiều ngày 12/12/2023 tại Thủ đô Hà Nội và câu chuyện câu thơ đề cập đến tách trà: Tặng quân thiên lý viễn/ trang trọng. Ấy là tính lão thực của tình người Việt!
chiều ngày 6/3/2024, nghệ nhân trà Việt Hoàng Anh Tiếu bả nhất âu trà (dịch là: Tặng người ngàn dặm cách Nhàn hơn, kỹ tính và quý phái hơn thì người Việt mới
Sướng mời tỷ phú Mỹ Bill Gates thưởng thức nghệ thuật xa/ Cười dâng chỉ một âu trà thế thôi). tính đến nguồn nước. Nước dùng pha trà thường là nước
thiền trà với bộ đồ trà cổ của người Việt Nam trên núi Nói đến nghệ thuật trà đạo Việt trước hết phải nói lấy từ các con suối thiên nhiên, từ nước giếng sâu và kỳ
Bàn Cờ, quận Sơn Trà (thành phố Đà Nẵng). Có thể nói, chất lượng hương vị của từng loại trà, tiếp mới nói tới công tinh túy thửa nước đọng giọt trong từng đài sen, lá
hai sự kiện mời trà trên đã góp phần đưa giá trị trà Việt nguồn nước pha trà (nhất trà, nhị thủy) và thứ nữa là sen buổi sớm mai. Đun nước thửa củi bằng gỗ chắc than
Nam với các loại trà đặc sắc như trà mạn sen Đầm Trị trà thất, trà viên, trà cụ, quy cách pha và phong cách đượm, thậm chí gỗ có mùi thơm. Chăm lửa cho ngọn
Tây Hồ, trà Olong lão Mộc Châu, bạch trà shan tuyết thưởng trà. lom rom, liu riu, canh nước tới khi sôi vừa sủi tăm, không
cổ thụ Tây Côn Lĩnh, còn gọi là trà chốt đỉnh 2000 hay quá nóng. Rồi thửa bình thủy ủ ấm nước để mùi vị trà giữ
bạch trà chốt tiền Thanh Minh lên hạng “chốt đỉnh” nghệ Trà còn được gọi là chè. Cây chè trồng khắp mọi được nguyên bản. Ấy là cốt cách tinh thần Việt!
thuật thưởng trà, thiền trà trong thế giới ngày nay. chốn đồi núi thôn bản miền rừng và miền xuôi làng xã. Trà ngon phải có bạn hiền! Lại cầm thêm câu “Miếng
Nhưng chè ngon nức tiếng của Việt Nam thì phải kể đến
Kể ra việc uống trà thì người phương Tây cũng ái mộ những cây chè có tuổi thọ tới năm, bảy trăm năm ở các trầu không trọng bằng tay bưng trầu”. Ẩm thực, chỉ là
trà từ lâu, như trà chiều Anh Quốc, trà bạc hà Maroc, trà xứ chè Thái Nguyên, Tuyên Quang, chè shan tuyết Hà miếng ăn miếng uống khi đã tôn thành đạo - trà đạo
Thổ Nhĩ Kỳ... nhưng thưởng trà rồi nâng cấp thành nghệ Giang, chè Mộc Châu, Sơn La, Nghĩa Lộ... Các vùng thì cách mời trà, dâng trà - một biểu thị trân trọng bạn
thuật trà đạo thì phải người phương Đông là Trung Quốc, quê này đều thuộc miền núi phía Bắc, nơi núi đồi cao, trà, trước bậc cao niên càng phải trân quý hơn. Dâng
Nhật Bản, Việt Nam mới lập thành trọn vẹn được. sương mây bao phủ giá lạnh quanh năm. Chính với khí trà trong bản tính trọng tình của người Việt ưa giản dị,
Người Trung Quốc được xem dùng trà khoảng 4.000 hậu, thổ nhưỡng đó mà cây chè ở nơi này đã tạo ra thứ không bày đặt nghi thức, chỉ cần chăm chút cử chỉ từ
năm nay, qua thời gian họ đã đặt ra cả một hệ nghi thức: hương vị đặc biệt riêng. Chè Việt có ba loại được dùng cách ngồi, vẻ mặt, lời thưa gửi, rồi mới tính đến cung
trà lễ, trà quy, trà pháp, trà kỹ, trà nghệ, trà tâm hay còn phổ biến là chè tươi, chè khô và chè hương. Chè tươi cách rót nước, đưa nước mời khách ân cần, khiêm hạ.
gọi là “trà đạo lục sự” và trà được xếp trong danh sách là những lá búp hái ngay tại nương rẫy, vườn nhà, đem Ấy mới thực thấu lẽ “Cao sơn trường thủy” - núi cao sông
7 vật dụng thiết yếu không thể thiếu trong cuộc sống rửa sạch rồi cho vào xoong nồi đun sôi lên lấy nước sử dài đã kết tụ ra loài dị thảo đó, khiến lòng người cảm hóa
là “củi, gạo, dầu, muối, tương, dấm, trà”. Trà đạo Trung dụng trong ngày. Chè khô là loại được thửa từ những theo cùng. Ấy cũng là cái đạo trọng tình - trọng tĩnh của
Quốc tập thành từ giới nho sĩ quý tộc rồi lan ra thiên hạ. búp lá non tơ, đem xao trong chảo cho nỏ se khô quắt người Việt gửi gắm trong trà thuật!
Người Nhật Bản dùng trà và nâng thành trà đạo vào lại từa tựa hình móc câu, vì vậy còn gọi là chè móc câu. Văn hóa trà Việt tuy có ảnh hưởng từ Trung Quốc,
khoảng cuối thế kỷ XII, văn hóa trà đạo nổi lên như một Loại này để được lâu và dùng pha hãm với nước đun Nhật Bản qua quy cách, tên gọi, như “nhất thủy, nhị trà,
hiện tượng tại Nhật Bản. Người Nhật khi thưởng trà còn sôi khoảng 80 - 85 độ, mỗi vùng đất một loại chè mang tam bôi, tứ bình, ngũ quần anh”, song cái cốt cách tính
kết hợp với tinh thần thiền của đạo Phật, biến trà không hương vị riêng. Chè hương là loại chè khô được ướp tẩm tình văn hóa Việt dù “đồng” mà không “hóa”. Ấy là do
chỉ là nước uống mà còn thành nghệ thuật trà đạo. Trà một mùi hương hoa nào đó, thường dụng có trà hương người Việt luôn dám làm điều khác biệt và biết làm đầy
đạo Nhật Bản dựa trên 4 nguyên tắc cơ bản: hòa - kính sen, trà hương nhài, trà hương hoa sứ... cái có vốn hư hao của mình. Trà đạo Trung Quốc thì cầu
- thanh - tịch, nó được khởi từ giới tu sĩ, võ sĩ đạo rồi mới Trà hương có loại để làm được 1kg thành phẩm kỳ, Nhật Bản lại nghiêm mật. Cốt Việt tinh túy mà giản
truyền sang giới quý tộc vương quyền. là cả một kỳ công mà không phải người nhà nghề có dị, to lớn mà dịu nhẹ, an vi. Đó là sự khác biệt lớn!