Page 139 - Văn Nghệ Bình Định
P. 139
Quán Gạo (thôn Mỹ Điền, Tuy Phước) đổi là trạm Bình Điền và trạm Bình Phú
(trên đèo Cù Mông, ranh giới Bình Định - Phú Yên) . Theo Đại Nam nhất thống chí,
thế kỷ XIX tỉnh Bình Định có 01 cây cầu sắt, 147 cầu gỗ và 33 cống đá.
Từ đường Thiên lý, nhiều con đường ngang nối từ đường Thiên lý đi qua các
phủ huyện, sách Đại Nam nhất thống chí, chép: Từ phía Đông tỉnh thành, qua
đường Thiên lý phủ Tuy Phước, sông An Tân, đến thôn Hoàng Kim là 05 dặm. Từ
phía Đông tỉnh thành, qua trạm Bình Nghĩa, phủ An Nhơn, đến phủ lỵ là 14 dặm.
Từ phủ lỵ An Nhơn qua hai trạm Bình Nghi, Bình Giang, qua huyện An Khê, đến
đồn An Khê là 85 dặm. Từ phủ lỵ An Nhơn có một đường từ phủ lỵ ra Bắc, một
đường từ phía Nam phủ lỵ đến nguồn An Tượng. Phủ Hoài Nhơn có một đường
từ phủ lỵ qua đường Thiên Lý, đến thôn Phụng Du, theo hướng Đông Bắc đến
cửa Kim Bồng; một đường từ phía Bắc phủ lỵ đến trạm Bình Đê, theo hướng Tây
Bắc đến nguồn Trà Vân, theo hướng Đông đến cửa biển An Dũ, lên phía Tây qua
huyện Hoài Ân đến đất man 27 dặm...
Các đường bộ liên thôn, liên xã, liên huyện và các tuyến lưu thông với phía
Bắc - Quảng Ngãi, phía Nam - Phú Yên, phía Tây - Gia Lai cũng được hình thành.
Theo Li Tana trong tác phẩm Xứ Đàng Trong - lịch sử kinh tế xã hội Việt Nam thế
kỷ XVII và XVIII: Con đường từ Strung Treng (Campuchia) - Pleiku - An Khê - Bình
Định và Quy Nhơn là một trong hai con đường thương mại và hàng hóa quan
trọng nhất giữa người Việt và người Thượng. An Khê - nguồn Cầu Bông/ Phương
Kiệu, một trung tâm trao đổi buôn bán, trường giao dịch quan trọng của huyện
Tuy Viễn, phủ Quy Nhơn/ Bình Định thế kỷ XVIII - XIX. Vị thế đầu mối giao thương
của cảng thị Nước Mặn, Quy Nhơn trong mối quan hệ liên vùng được xác nhận:
“... như một bến cuối của tuyến đường được đi lại nhiều dọc theo cao nguyên
đến thung lũng Mêkông, băng qua An Khê, Pleiku và đến sông Mêkông ở Strung
Treng (Campuchia), nơi kết nối với mạng lưới giao thương tỏa ra từ Ayudhaya/
Bangkok... Quy Nhơn trở thành trung tâm thương mại quan trọng tại đầu mối
của một cảng biển lý tưởng, con đường phía Tây qua núi, con đường phía Bắc
đến Thuận Quảng và con đường phía Nam đến đồng bằng sông Mêkông”.
Triều Nguyễn rất chú trọng đến giao thông, thường xuyên xây đắp, tu bổ,
mở rộng, chỉnh sửa tuyến đường Thiên lý. Năm 1805, vua Gia Long hạ lệnh cho
các địa phương đo đạt đường cái quan và các đường thủy bộ thường đi lại...
Năm 1809, nhân khi đắp đường cái quan ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định,
Phú Yên, Khánh Hòa, vua Gia Long cho rằng đường cũ quanh co xa xôi không
tiện, bèn sai Nguyễn Hoàng Đức và Lê Chất đi trông coi, lấy dây đóng nắn sửa
đắp thẳng lại... Năm 1832, vua Minh Mạng dụ cho Bộ Công: “... đường cái quan
nhiều chỗ núi cao, lính trạm qua đèo, Nhân dân đi lại, có nhiều sự khó khăn trở
ngại, nên theo địa thế sửa chữa để tiện đi lại. Vậy truyền lệnh cho các quan địa
phương xem xét địa phận hạt mình, chỗ nào có đá lớn ngăn trở, thì đốt cho nát
phá bỏ đi, cốt rộng từ 4 - 5 thước trở lên, đủ đi lại được; chỗ nào vì nước mưa lụt
chảy xói, lâu ngày trũng sâu, thì đá lấp đầy, hoặc xây thành bậc, cho được bằng
132 O VĂN NGHỆ Bình Định số Xuân Ất Tỵ tháng 1+2.2025