Page 24 - Tạp chí Giao thông Vận Tải - Số Tết Dương Lịch
P. 24

Số 12/2024 (748) KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
                                                                                Tập 64
                                                                                Tập
                                                                                    4
                                                                                    6
                                     Bảng 1.1. Khối lượng tro xỉ dự kiến theo quy hoạch điện VII
                                                                          Khối lượng tro, xỉ thải một số năm
                    Tổng công                  Trong đó
        TT   Năm    suất điện,                                            theo Quy hoạch điện VII, tấn/năm
                       MW       Nhiệt điện đốt than  Nhiệt điện đốt than   Lò hơi đốt   Lò hơi đốt   Tổng cộng
                                   tầng sôi, MW         phun, MW         tầng sôi   than phun
         1   2020                     5.716              29.575         6.001.800   19.439.970   25.441.770
         2   2025     35.291          5.986              41.290         6.285.300   23.086.800   29.372.100
         3   2030     47.276          6.586              68.290         6.479.700   31.834.800   38.314.500


           Tính chất của tro, xỉ NMNĐ chủ yếu phụ thuộc vào tính   Trên thế giới, Ấn Độ đã sử dụng tro bay nhiệt điện như
       chất nguồn than đốt và công nghệ đốt than. Các NMNĐ ở   là vật liệu để đắp nền trực tiếp theo sơ đồ như Hình 1.2 với
       Việt Nam hiện nay áp dụng hai loại công nghệ đốt than là   hai phương pháp thi công khác nhau, phương pháp đắp
       công nghệ đốt than phun (PC) và công nghệ đốt than tầng   xen kẹp một lớp đất một lớp tro xỉ hoặc phương pháp đắp
       sôi tuần hoàn (CFBC). Trong đó, NMNĐ có công nghệ đốt   tro xỉ dạng lõi. Tùy theo chiều cao nền đường nhưng thực
       than phun là phổ biến. Theo [4], đến năm 2020 và 2030,   tế thi công có thể đắp trực tiếp bằng tro xỉ lên tới 3 m/lớp
       công nghệ đốt than tầng sôi nước ta chỉ chiếm khoảng 10%   [5]. Theo đó, với 1 km đường cấp IV, bề rộng nền 9 m, chiều
       tổng công suất NMNĐ than. Do đặc điểm công nghệ khác   cao đắp trung bình 3 m, ta-luy 1:1,5, lượng tro xỉ sử dụng có
       nhau, nên tro, xỉ các NMNĐ theo hai loại công nghệ đốt   thể lên tới 80.000 tấn.
       than này cũng rất khác nhau.
           Tro, xỉ của NMNĐ công nghệ đốt than phun được hình
       thành do các quá trình đốt than đã được nghiền mịn ở nhiệt
       độ cao 1.400 - 1.500 C, gồm các hạt bị nóng chảy và các hạt
                       0
       than không cháy. Phần vật liệu bị nóng chảy khi được làm
       lạnh nhanh tạo ra các pha thủy tinh. Do đó, tro, xỉ gồm hỗn
       hợp của pha thủy tinh (vô định hình) và pha tinh thể, trong   a) - Phương pháp đắp xen kẹp lớp đất, lớp tro bay
       đó pha thủy tinh chiếm chủ yếu 60 - 90%. Tro bay gồm
       phần lớn là các hạt hình cầu dạng pha thủy tinh, các hạt
       này có thể là hạt cầu rỗng (chứa nhiều hạt cầu con trong
       nó) hoặc là các hạt cầu đặc. Hình 1.1 biểu thị hình dạng tro
       xỉ điển hình của NMNĐ đốt than phun tại Việt Nam.
                                                                        b) - Phương pháp đắp tro bay dạng lõi
                                                             Hình 1.2: Yêu cầu đối với tro xỉ khi sử dụng đắp nền đường ô tô [5]
                                                               Tại Việt Nam, việc sử dụng tro xỉ trong xây dựng công
                                                            trình giao thông mới dừng ở nghiên cứu lý thuyết, trong đó
                                                            điển hình là các nghiên cứu của Trường Đại học Xây dựng
                                                            Hà Nội và Trường Đại học GTVT. Các nghiên cứu này chủ
                                                            yếu tập trung ở việc sử dụng tro bay để kết hợp cùng xi
                                                            măng phục vụ gia cố đất, cát mịn. Hàm lượng tro bay sử
                                                            dụng trong khoảng từ 5 - 15% khối lượng đất, kết hợp với
                                                            tỷ lệ xi măng từ 3 - 5% [6, 7]. Bên cạnh đó, có thể sử dụng
                                                            một hàm lượng tro bay nhất định trong chế tạo bê tông
                                                            đầm lăn phục vụ xây dựng mặt đường ô tô cấp thấp. Bài
                                                            báo tập trung vào việc nghiên cứu lý thuyết khả năng ứng
                                                            dụng loại vật liệu tro xỉ này áp dụng trong xây dựng các
                                                            công trình giao thông ở Việt Nam.

                                                               2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ THÀNH PHẦN CẤP PHỐI
                                                            CỦA VẬT LIỆU DẠNG HẠT
                                                               2.1. Nghiên cứu ảnh hưởng của thành phần hạt
                                                               Thành phần cấp phối là tỷ lệ phối hợp giữa các nhóm
                                                            cỡ hạt có mặt trong một tập hợp vật liệu hạt đem sử dụng.
                                                            Thành phần hạt được biểu thị bằng các đặc trưng sau:  Cỡ
                 Hình 1.1: Hình dạng hạt tro xỉ điển hình   hạt lớn nhất D có mặt trong tập hợp hạt (mm); tỷ lệ % tính
                     của NMNĐ đốt than phun [2]             theo tổng khối lượng vật liệu hạt của mỗi nhóm cỡ hạt d/
                                                                                                           i
                                                                                                         23
   19   20   21   22   23   24   25   26   27   28   29