Page 34 - Báo Cà Mau - Số Tết Âm Lịch
P. 34
có cây kéo, hổng ấy chu cháu mình hớt vần công đi.
Tôi nói, con không biết hớt, thì ông nói hớt vài lần NGUYỄN BÁ
rồi biết chớ gì. Vậy là chu cháu tôi thay phiên hớt cho
nhau, tóc cũng cao ráo nhưng sọc rằn như cá bổi.
Xong xuôi ông chọc tôi đừng đi gần bờ đìa coi chừng
cá lóc tưởng mồi nó táp... Hê tôi bị cảm là ông đè cạo T r ở L ạ i
gió, rồi nấu nước cho xông...
Hôm nay tôi về thăm nhà ông Mười mà như thấy
lại cơ quan cũ bên cạnh mái lá nghèo của vợ chồng
người thương binh. Tôi dâng quà mọn rồi thầm khấn ^ M in h
ông và chỉ biết nói về những ân tình của vợ chồng ông
hồi 50 năm trước... Mắt tôi cay khi lên xe từ gia một
tấc lòng của người U Minh. Chiếc xuồng con vượt hàng trăm cây số
Rời nhà ông Mười, xe chung tôi đi trên đê Quốc
phòng biển Tay Nam Mũi Cà Mau. Tôi và Nhà văn Cùng vói tôi trở lại đất UMinh
Phan Trung Nghĩa có cùng một cảm thức. Một con Noi con sông mùa sa mưa nưóc đỏ
đường đẹp đẽ đến tuyệt vời, nằm trấn giữa, giới hạn Noi chân trời mát mẻ bóng tràm xanh
biển và lục địa. Một bên là rừng U Minh xưa giờ thay Noi quê hưong bao người thưong đang ở
đổi đến không nhận ra sau 50 năm giải phóng đất
nước. Cà Mau đã thực hiện giao đất giao rừng phù Chiếc lá roi cũng xao động tâm tình!
hợp với mục tiêu của cách mạng dân tộc dân chủ là
người cày có ruộng. Theo đó, đa số người U Minh có
A nh Ba M inh ở L ung Tràm, ấp Đ ường Ranh (huyện Tôi bưóc nhẹ trong tiếng cười rộn rã
ruộng, có rừng thành khoảnh với những mô hình làm
Trần Văn Thời), hăng hái, an tâm trên m ặt trận mới (3/1971). Nghe hoi sưong thom khói súng công đồn
ănbền vững. Quan sát chung tôi thấy phổ biến là nhà
Ả nh tư liệu tường, phía trước cùng sân vườn kiểng, phía sau vườn Trăm ống loa thổi niềm vui khắp ngả
rau, ao cá, ruộng lua vấ đất rừng tràm. Chiến thắng Dinh Điền, Rạch Ráng, Khai Hoang...
s Phía biển thì nắng trải bạc xôn xao trên ngọn sóng.
Ở đó thấp thoáng hon Đá Bạc, Hòn Khoai như cảnh
tiên. Trên biển nhấp nhô những chiếc tàu đánh cá Nón mật cật trắng tưoi màu lá mói
hiện đại. Xe chung tôi đến cửa Sông Đốc thì cả ba đứa Em boi xuồng chuyển bộ đội qua sông
đều sững sờ trước sự sầm uất, mơ rộng của thị trấn Những cô gái vừa vây đồn thắng trận
biển và chung tôi nhận ra Trần Văn Thời đang vươn
lên, làm ăn lớn. Tôi ngẫm nghĩ, 50 năm đung là vật đổi Rủ nhau về gội tóc nước tro trong.
sao dời, không còn nhận rađược nữa.
Nhà cuối cùng chung tôi ghé là ngôi nhà của Đỗ Giữa ngày vui UMinh có nhớ
Kiến Quốc, chủ hộ là má Tư. Gia cảnh khá neo đơn:
Quốc thì rời gia đình đi học tập, công tác từ nhỏ, Đồng chí ta bị hành quyết trên sân
em gái thì lấy chồng xa, thằng ut ở với dì thì vợ bị tai Ta căm giận còng lưng gùi đau khổ
nạn chết. Hiện tại nó cũng có nhân tình nên đi sớm Vào rừng sâu cất cứ, xây làng
về muộn, ở nhà chỉ còn má Tư thường xuyên tới lui
một mình như cái bóng. Nhiều lần Quốc rước m á ra Từng buổi chiều trèo cây nhìn xóm cũ
Cà Mau ở, nhưng dăm ba ngày thì bà nằng nặc đòi Tro trọi nóc đồn, đè nặng bờ sông
về. Bà bảo, già rồi không thể xa nhà, bỏ quê, càng Tiếng mõ đêm đánh tan giấc ngủ
muốn sống với vòm trời riêng của đời mình. Ngồi đợi nhau: trễ hẹn, phập phồng...
Đỗ Kiến Quốc nhìn mẹ mình bằng đôi mắt ưu tư,
tôi cũng xúc động sau nhiều năm gặp lại. Còn Phan
Trung Nghĩa nói: “Em gặp dì Tư cách đây hơn 40 Nhưng tất cả đau thưong ngày tháng đó
năm, trong lần Quốc dẫn về thăm nhà, trong chuyến Ta nấu nung, rèn đúc trong lòng
công tác ởTrần Văn Thời. Bây giờ dì Tư già quá. Cũng
phảithôi, đã ngoài 80 tuổi rồi mà". Thành khẩu súng trên tay ta quét lửa
Má Tư thương xuyên sống một mình, bà lấy Thành hầm chông ôm bóng tối lặng câm!
Quân trang, m ột đơn vị thuộc Cục Hậu cần Quân khu 9, công việc gia đình làm lẽ sống. Nhà má là ngôi nhà Thành ngàn chân bước nghiêng ruộng lúa
gồm 29 nữ, do chị Tư Bích chỉ huy. Ngoài việc hoàn thành tường cũng tương đối khang trang, trước thì trồng Giành lại Khánh Bình, Nguyễn Phích, Khánh Lâm...
kiểng, chủ yếu là mai vàng, xung quanh nhà thì rau
nhiệm vụ chuyên môn, đơn vị còn tự lực trong đời sống,
trái, sau nữa là ao đìa nuôi cá vấ những liếp chuối Để hôm nay tôi trở về gặp gỡ
đảm đang cả những công việc nặng nhọc. (Ảnh chụp tại
xiêm. Cuối hậu đất là mấy công ruộng và một vạt Xóm làng xưa sông nước của ta
Rạch Nai, Cái Tàu, 27/10/1970). Ảnh tư liệu
tràm. Vườn nhà rất sạch sẽ, tinh tươm, chứng tỏ Mừng giải phóng ven sông cười, sóng vỗ
chủ nhà là một người kỹ tính, hay làm và quần quật
tối ngày. Cái nếp sống đó bà đã quen từ thời con Đáy sông sâu rộn ánh sao sa
bên kia sông, xe ô tô không thể qua được. Tôi bụm tay gái. Gia cảnh nghèo, lấy chồng được ba đứa con thì Giữa ngày vui, Cái Tàu oi có nhớ?
làm loa gọi sang. chồng hy sinh. Vậy là dì không tái giá, một thân một Những đêm nào xuồng du kích boi qua.
Cô gai chủ nhà luống cuống lấy xe chạy qua rước tôi. mình nuôi ba đứa con khôn lớn, nuôi thằng Quốc
Dọc đường tôi cho biết, trước tưng đóng cơ quan ở trong thành tài. Bây giờ làm vườn để lâu lâu gửi ít quà
đê U Minh cách đây chừng 500 m, thường ra đây nhờ sự quê cho con cháu... Câu chuyện của má Tư là một Gà đã réo bình minh trên đất Dớn
giúp đỡ của gia đình và co bác Cơi 5 này. Người phụ nữ câu chuyện giản dị, ẩn chứa nhiều niềm đau. Đó là UMinh oi, chào tạm biệt quê nhà
rước tôi cho biết, cô chưa đầy 40 tuổi, tức luc tôi tư giã một câu chuyện thường thấy ở đất U Minh, cho nên Nước lớn rồi, gọi một chuyến đi xa...
xứ này hơn 10 năm cô mới ra đòi. Tôi kêu ba má em là phẩm hạnh của má là phẩm hạnh của người phụ
cậu mợ Mưòi. Hồi đó nhà cậu mợ Mưòi như trạm dừng nữ U Minh. Nó hội đủ những thứ cần có cua phẩm
chân của bộ đội, cán bộ tư miệt Năm Căn, Đầm Doi, Cai hạnh người phụ nữ Việt Nam. Khánh Bình Tây, 6/1965
Nước... Trên đưòng công tác lên chiến trưòng trọng điểm Tôi và Phan Trung Nghĩa ra phía sau nhà. Ngôi
Cần Thơ thưòng ghé nghỉ chân com nước, hay những gia nhà tường má còn gíư được cái bếp thời xa xưa. Và
đình lên ven rừng này thăm thân nhân các cơ quan trong hai chung tôi sững sờ khi bắt gặp giàn bếp quê hương
khu vực cũng ghe đây, vì do bí mật không vào được trong đặc trưng của bán đảo Cà Mau va miền Tây Nam Bo
cứ. Nhà ông bà sống nghề làm ruộng, giặc giã cấy hái bấp được lưu giữ và nấu nướng hằng ngày. Bếp được thiết
bênh nên thiếu trước hụt sau, nhưng bất cứ cán bộ, bộ kế bằng go tràm, có bốn chân, dưới chân bếp thì chất
đội dù lạ hay quen, dù ngày hay đêm, cả nhà đều niềm nở củi, trên bếp có ba ông lò truyền thống nấu bằng củi.
thu xếp nơi ăn nghỉ, rồi cơm nước, có gì ăn nấy. Chưa nói Không gian trên nóc bếp dì Tư làm cái gác tạm bợ để
gạo, việc phải đi xa lấy nước ngọt, vào ven rừng chặt chà chất lá dừa mà nhóm lửa, gần đó có đóng cái kệ đặt lủ
tràm làm củi cũng lắm nhọc nhằn. Mẹ tôi mấy lần công khủ gia vị và có cả buồng chuối chín.
tác tranh thủ ghé thăm tôi cũng ở nhà cậu mợ. Khi từ giã, Nhà văn Phan Trung Nghĩa đứng nhìn xuc động
mẹ tôi dúi vào tay mợ ít tiền gọi là tiếp một phần tiền gạo như bắt gặp một không gian cũ, một khoảng thời ký ức
thì cậu mợ giận dỗi, cằn nhằn và quyết liệt từ chối. Ra của mình, rồi bảo: “Anhchụp giùm em mấytấm ảnh".
thăm mộ cậu mợ rồi vào nhà dâng phẩm vật lên bàn thờ. Tôi đến gần bếp chụp ảnh và phát hiện dưới
Tôi thắp nén nhang khấn cậu mợ mà ngậm ngùi, vì ông lớp tro tàn vẫn còn mấy hòn than âm ỉ cháy. Tôi
bà đã đi xa... để lại trong tôi một tình sâunghĩa nặng. chợt nghĩ, đó là ngọn lửa của lòng người U Minh
Nhà thứ hai chung tôi tói thăm là nhà ông Mười Đa, ngàn năm vẫn cháy, với khát vọng vươn tới ấm
cũng nằm xóm này, nhưng gia đình đã dời đi xa cả 7-8 no, hạnh phuc. ,
cây số. Ông bà đềulà thương binh, năm 1973 về quê làm Tôi từ giã U Minh khi m ùa xuân At Tỵ đang
ruộng, nhưng ít đất nên phai làm nghề lưới câu, lờ, lọp về. Én đã chấp chới trên ngọn tràm. Lòng tôi xốn
ven rừng kiếm sống. Ông bà đôn hậu, thương con cháu, xang, tôi hứa sẽ trở lại vùng rừng nhiều kỷ niệm
nhất là lu nhỏ trong cơ quan tôi đóng giáp ranh đất ông. của mình, về lại với căn cứ U Minh bất khuất và
Nghèo do ít đất và làm lụng không bang ai, do thương tôi chợt nghe văng vẳng bốn câu thơ của Nhà thơ
tật sau những năm chiến đấu. Vậy mà hê cắm câu được Nguyên Bá - Một người cũng thật nhiều kỷ niệm
cá lóc bự, không bán, mà mần nấu cháo dừa rủ tụi nhỏ với U Minh.
chung tôi qua ăn. Ông hay tặc lưõi: "Mấy đứa nhỏ quá mà ...Noi con sông mùa sa mưa nước đỏ
sớm thoát ly, giống chu Mười hồi đó quá. Tụi bây sức ăn Noi chân trờimát mẻ bóng tràm xanh
sức lớn chắc mau đói lắm. Chu giấu chuối trên bờ ranh, Noi quê hương bao ngỊười thương đang ở
do bị thương xách vô không nổi, lâu lâu đem xuồng ra Chiếc lá roi cung xao động tâm tình...u M inh hoạ: KIỀU LOAN
chở cho lối xóm. Chuối chín nhiều lắm, tụi con ra đo ăn
no rồi về". Có lần thấy tóc tôi phủ lỗ tai, ông nói nhà chu (Trở lại U Minh - Thơ Nguyễn Bá)