Page 79 - Tạp Chí Văn Nhân
P. 79
CHÂN DUNG VÀ TÁC PHẨM
cùng công tác, chiến đấu trên địa bàn tỉnh con giữa rừng già, mẹ ơi!”. (Bên vòng tròn
Nam Định. Tôi trân trọng anh không chỉ ca dao)
bởi tài năng văn thơ, mà còn tìm thấy ở Đó là tình bạn, tình đồng đội gắn kết
anh một con người nhân hậu, ngay thẳng, biểu lộ niềm cảm phục, sự tri ân.
thủy chung, tình nghĩa, cẩn trọng trong Với nhà văn anh hùng liệt sĩ Nguyễn
suy nghĩ và hành động, làm việc hết mình Thi: “Vẹn nguyên “Ước mơ của đất”/
với trách nhiệm cao. Phải chăng từ nguồn Giọt giọt hồng cầu dồn cho trang viết/
nội lực dồi dào và sức sáng tạo ấy đã thấm Qua lửa réo ù ù khốc liệt/ Vành mũ ướt
vào những trang thơ viết về người chiến sĩ. đầm sương sớm tháng Năm.../ Người lính
Đó là hậu phương, sự giao hòa vô chiến - nhà văn cảm tử/ Trong khoảng
hình và hữu hình, điểm tựa vững vàng chói chang nào trời xanh phương Nam”.
cho người ra trận. Thời kỳ chống Pháp là (Trong ngõ Văn Nhân)
hình ảnh chiến khu Việt Bắc: “Cao Bằng Với tác giả bài thơ “Cuộc chia ly màu
trùng trùng ruộng nương gối bản/ Suối đỏ”, nhà thơ Nguyễn Mỹ: “Chiến trường
ngàn xòe ánh lửa hoa đêm rằm/ đàn tính đã một thời xưa/ Chiều quê gõ nhịp chèo
nảy tâm tình non nước/ rừng hội quân đưa bềnh bồng/ Mây đèo Cả, đá Cù Mông/
nuôi chí anh hùng/ vách hoa cương tạc Nhớ người ra trận mà không hẹn về”. (Nhớ
lời thề cứu quốc/ bếp rèn quân khí thềm một người đi)
hang búa rền/ bước chân hỏa tốc...”. Với ba chiến sĩ Hải quân quê Nam Định,
(Hành hương Cao Bằng) hy sinh ngày 14/3/1988, trong trận chiến đấu
Thời chống Mỹ, hậu cứ là những buôn ác liệt giữ đảo Cô Lin, Gạc Ma: Thuyền phó
làng, phum sóc Tây Nguyên, Nam Bộ vùng Phạm Gia Thiều, chiến sĩ Nguyễn Xuân
giải phóng được thơ phản ánh: “Người dẫn Thủy (huyện Trực Ninh), chiến sĩ Nguyễn
đường bãi khách sương giăng/ Mảnh tước, Ngọc Kiên (huyện Nam Trực). Phạm
mũi lao, đá còn giữ lửa/ Giọng hát X’tiêng Trọng Thanh cùng bạn thơ liên hệ qua Hội
vòng tay em múa/ Nỗi nhớ một đời là nhớ Truyền thống Hải quân Nam Định, tìm về
về đây!”. (Vùng rừng năm ấy) địa phương thăm nhà, thắp nén hương thơm
“Anh nhớ qua đêm chờ xuất kích/ tưởng niệm và có thơ đăng báo gửi tới chia
Vườn má chia đi mấy dãy hào/ Bãi trải sẻ cùng thân nhân gia đình liệt sĩ.
vòng vèo tay Út trỏ/ Thương nhiều vóc má Đáng chú ý ở tác giả Phạm Trọng
đã gầy hao”. (Trái cây má gửi) Thanh, khi nhắc tới các anh hùng liệt sĩ,
Hậu phương lớn miền Bắc, các bà mẹ anh hướng tới những tấm gương hy sinh
chờ con: “Quê nhà mẹ ngóng chờ con/ có địa chỉ rõ ràng, hành trạng cụ thể. Ví
Miền xa mặt trận mỏi mòn trang thư/ Rau như viết về mười nữ dân quân phòng
xanh ngọn, lúa mở cờ/ Nén nhang thơm không Lam Hạ bắn máy bay Mỹ, hy sinh
vọng ban thờ tổ tiên”. (Bài thơ tạ lỗi) tại trận địa pháo cao xạ Phủ Lý năm 1966,
“Mẹ thầm lặng những đêm thâu/ Giữa 1967: “Chạm vào hương lá ngụy trang/
ba bề gió thổi nhàu chéo khăn”. Còn nghe Phủ Lý rền vang đất trời/ Đội
để có: hình mười tám đôi mươi/ Trong veo ánh
“Hạt gạo lặn lội đường xa/ Trên vai mắt, nụ cười xuất quân/ Giữa vùng bom
78 VĂN NHÂN SỐ 158+159 NĂM 2025